Monday, September 29, 2008

Lệ Dung Sang Tề

Hôm nay là Xuân mai còn Xuân
Pháo đỏ đầy thêm nhớ cố nhân
Cung nữ môi tô rầng rật điệu
Ai về Chiêm quốc hộ Huyền Trân

Nguyễn Bính
Lệ Dung em ơi! sao em nỡ đan tâm lòng quyết (yết) sang (ờ ờ) Tề...”
Tiếng ca rướn cao lên ở chữ quyết rồi dợn uốn ngân nga sang chữ Tề để xuống câu vọng cổ lâm ly mùi mẫn..
“...Em ra đi cho lỗi hẹn câu thề. Như ta đây đã từng là một dũng tướng dọc ngang ngang dọc mà giờ phút này con tim sắt đá thiên vạn đường dài cũng nhất phiến u hoài chỉ vị khanh (ơ ơ...).” Tiếng ca bứt rứt não nề buông lên lời trách móc, tự trách mình và trách người đẹp đã nhẫn tâm rứt tà áo lụa mà lên đường trắc trở xa xăm về xứ khác. “...Em ra đi đoạn đành giẫm nát tình anh, không một lời hỏi han giã từ dục bước lên kiệu hoa đem tấm thân ngọc ngà sang Tề quốc (ờ ơ ơ...).”
Giọng ca của anh Hai Te , người thợ mộc trẻ tuổi tài hoa của ba tôi, bữa nay nghe sao mà thống thiết não nuột hơn bao giờ hết. Trời vừa sụp tối. Tối nay, cũng như mọi tối, sau khi cơm nước xong, anh Hai Te ôm cây đờn lục huyền cầm ra ngồi ở đống cây trước trại mộc vừa khảy nhấn ngọt ngào vừa mùi mẫn hát theo vài khúc ca giải muộn. Bên lối xóm chắc cũng đã có cô gái lãng mạn nào đó si tình anh rồi không chừng. Mọi tối khi nghe anh hát bài Lệ Dung sang Tề tôi thưởng thức điệu nghệ tài hoa của anh và cảm thấy dễ chịu. Nhưng tối nay, cũng vẫn những câu hát đó mà lời ca bất chợt chuyên chở được mối tơ lòng ngổn ngang của mình, tôi cảm thấy ôi sao nó thoát trở nên vô cùng ngậm ngùi thấm thái! Trời hâm hấp nóng mà người tôi thấm lạnh nổi gai ốc ran ran. Tôi ngồi ở bực cửa sổ trên gác thả hồn mình dật dờ chóng mặt theo điệu ca nhấp nhô trầm bổng....
“Lệ Dung em ơi! sao em nỡ đan tâm lòng quyết sang Tề?” Nhưng Lệ Dung nào đâu đã sang Tề. Vậy mà đối với dũng tướng.... học trò lớp đệ ngũ như tôi, dù nàng hãy còn sờ sờ đó mà tưởng chừng như đã muôn trùng cách biệt, đôi tay vụng về của tôi sẽ không bao giờ vói tới. Tôi si tình. Tôi lại si tình. Tháng rồi. Năm ngoái. Lần nọ. Lần khác. Rồi lần nữa. Thêm một lần nữa tôi lại si tình! Bắt đầu từ lúc nào tôi biết si tình? Từ hồi mới vô đệ thất? Kim Sơn, Bê. Hay hồi bước lên đệ lục? Cúc, Thủy. Hoặc còn sớm hơn như vậy nữa, hồi còn là nhóc con ngồi ở lớp ba lớp tư hay lớp bét trường làng? Nữ, Nguyệt. Hay ngay từ lúc tôi chưa cắp sách tới trường? Lạc, Quý. Chính tôi cũng chưa chắc đã rõ được. Nhưng chắc một điều là những lúc gần đây tôi càng ngày càng tiến bộ. , càng ngày càng hăng hái si tình hơn trước. Lan, Hươnng, Lài, Ánh, Nho, Hiền, những đó hoa xinh xắn vừa hé nụ của trường Cao Tiểu Vĩnnh Long (sau này đổi tên Nguyễn Thông rồi Tống Phước Hiệp), những nàng kiều nữ con ông Bảy Hoàng, những cô gái mỹ miều của bà Vĩnh Phúc. Và còn biết bao nhiêu bông hồng khác nữa tôi đã từng theo đuổi... xa xa phía sau mà không hề biết tên biết tuổi. Tuy nhiên, cũng không phải nhờ vậy mà tôi khổ sở ít hơn. Khổ sở điêu đứng ngất ngư vì con tim quá sức nhạy cảm của mình. Nghĩ cho cùng, có lẽ tôi si tình kinh niên và người đẹp chỉ là một cái cớ. Vừa chợt ngó thấy kiều nữ nào xinh xinh mũm mĩm là con tim tôi đã cỡn lên đập loạn xạ, dù nàng có nhỏ tuổi, bằng tuổi hay lớn tuổi hơn tôi cũng không thành vấn đề. Đập loạn xạ để rồi đêm tối nằm một mình ôm con tim nhảy cỡn của mình mà hồi hộp nhớ thương mất ngủ. Những lúc đó nếu có bóng hồng nào chợt đoái tưởng tới tấm chân tình thiệt thà của tôi bèn nảy ra sáng kiến lấy mực tím đề cho tôi một bức thơ tình ngạt ngào trên giấy lụa chắc là tôi sẽ đứng tim mà ngã lăn ra chết tốt. Chết vì quá đỗi bồi hồi sung sướng. Đôi khi tôi oán trách trời già cay nghiệt mắc mớ gì khi không lại sinh ra một thằng con trai với trái tim rướm máu lạng quạng mút mùa như tôi làm chi vậy. Si tình lên. Si tình xuống. Lắc lư qua. Lắc lư lại. Ngất ngư.
Để rồi giờ đây, thêm một lần nữa, tôi lại si tình Lệ Dung. Anh với em má tựa vai kề, nay dù em có lạc Sở sang Tề, thì em cũng gởi thơ về cho anh hay. Mà nào tôi đâu đã được má tựa vai kề. Chỉ dám đứng xa xa mà ngó Lệ Dung và hồi hộp. Rồi tới lúc xáp lại gần mà chiêm ngưỡng, mái tóc xõa dài nhu mì thắt kẹp đồi mồi ngang lưng của nàng thầm kín tỏa ra hương thơm quấn quít của loại nước hoa kỳ bí, tôi càng thêm bấn loạn bủn rủn. Tôi lo sợ trong một phút hoang mang nào đó, cầm lòng không đặng, tôi sẽ buông ra một câu nói... lãng-nhách—để rồi tối đến nằm lẻ loi lăn trở, nhớ lại câu nói bốc đồng của mình mà ân hận thức trắng giờ con mắt. Còn Lệ Dung thì giận lẫy bỏ sang Tề.
Nhưng may mắn thay Lệ Dung chưa nỡ đan tâm bỏ sang Tề. Lệ Dung vẫn hãy còn đó. Không phải vì Lệ Dung quyến luyến dũng tướng học trò Lê Kiệt. Nàng đang dạo chơi và hứng mát ngoài cầu tàu Long Hồ ngó mặt qua cù lao AN Thành xanh dờn cây lá nhô lên giữa dòng Cổ Chiên cuồn cuộn nước xuống ngừ đục phù sa khi chiều tới. Chút nữa nàng sẽ trở về đây. Nàng sẽ trở về căn nhà trống trải nương tựa vách lá và vách ván của nhà hàng xóm hai bên mà vươn lên. Nàng sẽ bỏ guốc mộc và nhón gót chân son nhẹ nhàng bước trên những bực thang gỗ rón rén leo lên căn gác nhỏ này đây rồi bất chợt xuất hiện trong vòm hương tỏa thơm quấn quít. Và bắt gặp quả tang tôi đang ngồi ở bực cửa sổ mà mong ngóng nàng. Cũng như hôm qua, cũng như hôm kia. Không! Không được. Không lẽ tôi cứ ngồi im ở bực cửa sổ này đây chịu trận cho anh Hai Te hát những câu vọng cổ bứt rứt và yên lặng mong chờ nàng trở về mà trong bụng mình cứ sốt ruột cầm canh?
Tôi vội vàng bỏ chạy xuống gác nắm lấy cổ chiếc xe đạp cà tàng dắt ra ngoài đường lộ đá xanh loang lở. Tôi thót lên yên đạp đánh một vòng lớn ra phía cầu tàu với hy vọng... đừng gặp Lệ Dung. Vái trời cho tôi đừng bắt gặp nàng đang âu yếm cặp kè người yêu và ngoẻo mái tóc nhu mì lên vai của chàng mà du dương dạo mát. Chỉ tưởng tượng trong trí mình hình ảnh đó thôi, tôi đã bắt đầu lên cơn sốt. Đem bao hy vọng lúc ra đi, chuốc lấy buồn thương lúc trở về. Lòng mỗi lần đi lần bão táp, mỗi lần là một cuộc phân ly!
Vái trời....
Em ơi em ở lại nhà
Vườn dâu em đốn mẹ già em thương
Mẹ già một nắng hai sương
Chị đi một bước trăm đường xót xa
Cậy em em ở lại nhà...
Lần này, từ trường Nguyễn Đình Chiểu Mỹ Tho trở về Vĩnh Long tị nạn, Lộc anh tôi mang về một món quà quý báu bất ngờ: “Lỡ Bước Sang Ngang”, tập thơ ngậm ngùi của thi sĩ Nguyễn Bính. Tập thơ chép tay trên tập vở học trò dầy hai trăm trang có gạch hàng vuông và kẻ lể đỏ. Trang đầu có vẽ bằng mực tàu đen mun một gương mặt đàn ông rầu rầu đau khổ và xa xa phía sau là hình bóng một cô lái đang cheooò đò dưới một tàng cây lãng mạn sà xuống mặt sông la đà. Tôi thức đêm đọc một lèo hết trọn tập thơ đó, vừa bùi ngùi vừa đê mê những vần thơ của Nguyễn Bính, có lẽ vì tôi khám phá ra ở chàng thi sĩ thất tình chuyên nghiệp này một tâm hồn đồng điệu. Đồng điệu ở chỗ anh chàng này cũng lẩm cẩm hết cỡ nói. Đã quyết không được một ngày, rôiì yêu mất cả buổi chiều nay. Chiều naay bướm trắng ra nhiều quá, không biết là mưa hay nắng đây? Chỉ có mưa với nắng thôi mà cha nội đã bắt đầu lẫm cẩm. Còn nói gì tới thương với nhớ. Lạ quá! Làm sao tôi cứ buồn, làm sao tôi cứ khổ luôn luôn, làm sao tôi cứ tương tư mãi người đã cùng tôi phụ rất tròn? Còn phải hỏi “lạ quá” với “làm sao”! Tại cha nội chẳng những lẩm cẩm số một mà lại còn si tình số một nữa. Y hịch như tôi vậy. Đã trót mang lấy nghiệp vào thân thì hãy cắn răng gồng mình mà chịu chớ hơi sức đâu ở đó mà vò đầu bức tóc tự hỏi vớ va vớ vẩn “nàm thao mí nị nạ quá!”
Nếu tôi lẩm cẩm và si tình số một thì trái lại Lộc anh tôi phiêu lưu văn nghệ và phiêu lưu chính trị số một. Hồi còn đang học ở trường Cao Tiểu Vĩnh Long, một đêm mưa gió bão bùng nọ tự nhiên anh chàng nổi dậy cơn bão lòng yêu nước bèn biệt kinh kỳ ôm gói vô bưng theo kháng chiến chống Tây cứu nước. “Tôi chẳng cần gì vợ đẹp xinh, tôi không lưu luyến mảnh hương tình, tôi không cần của không cần sắc, tôi quyết vì dân quyết đoạn tình”. Chàng đề thơ để lại lâm ly như vậy đó trước khi lên đường giết giặc. Lên voi túc một tiếng còi, thương con nhớ vợ lịnh đòi phải đi. ngon lành chưa?
Nhưng rồi ở bưng bị sốt rét rừng chịu đời không thấu chàng bèn xách trái lựu đạn liệng xuống sông giả biệt bưng biền phản hồi cố quận.... và bị đuổi học. Chàng chiến sĩ trái mùa bèn dời đô sang Định Tường theo học lớp đệ tam trường Nguyễn Đình Chiểu. Rồi xa quê hương nhớ mẹ hiền, nơi xứ lạ quê người, chàng phải lòng yêu Xuân Huê, để rồi sau đó gặp gỡ Lệ Dung từ Bến Tre sang Mỹ Tho học trọ, và đắm đuối hăng say đeo đuổi sứ mạng phiêu lưu tình ái mới mẻ của mình. Lụy vì tình tưởng đã yên lòng dũng sĩ , đâu dè chàng lại nghe lời sách động biểu tình ủng hộ trò Ơn tử vì nước. Chàng hiên ngang trương biểu ngữ giữa hàng hùng binh có ta đi hàng đầu kêu gọi học sinh bãi khóa. Bị lính kín truy lùng chàng chạy lộn trở về Vĩnh Long để xin tỵ nạn chính trị, một tay xách theo tập thơ Lỡ Bước Sang Ngang chép tay của Nguyễn Bính. Còn tay kia thì không quên ẵm theo Lệ Dung rời bỏ nước Tề trên bước đường lưu vong mong giờ phục quốc—chàng đâu có dè làm như vậy là kẹt cứng thằng em thơ dại của mình. Lúc đó nhằm những ngày cuối năm, sắp bãi trường ăn Tết. Hôm nay là Xuân mai còn Xuân, phơi phới mưa sa nhớ cố nhân. Đã có yêu nhau là đến thế, đừng về Chiêm quốc nhé Huyền Trân!
Khi thấy chàng dũng sĩ hồi hương lại còn dắt theo một em bé vị thành niên, ba má tôi đều hoảng vía. Tôi mười ba tuổi, Lộc lớn hơn tôi năm tuổi, công nương Lệ Dung tuổi giữa lưng chừng. Hồi ở Bạc Liêu, anh Hai tôi sang Bến Tre học nghề thợ dệt cũng đã dắt về một em bé xứ dừa để trình diện cùng ba má. Nàng tên Lệ Hằng. Lúc đó tôi còn quá lỏi, chưa kịp si tình, chỉ nhớ man màn Lệ Hằng cũng là một trang mỹ nữ. Sợ ba má cô gái đâm đơn kiện con gái mình bị thảo khấu bắt cóc, má tôi thất kinh vội vàng dắt nàng ra xe đò chạy bằng củi than để tiễn nàng về cố quốc. Hết Lệ Hằng bây giờ tới phiên Lệ Dung, cũng là mỹ nữ miệt Bến Tre. Mới biết ngoài dừa tươi, Bến Tre còn sản xuất những ông già Ba Tri và những cô gái đẹp mỹ miều thaa thướt. Khi Lộc nắm tay Lệ Dung dắt lên gác giới thiệu nàng với thằng em yêu dấu của mình một cách bất thần không có viết thơ báo trước, tôi chới với, trái tim nhảy cỡn lên đập loạn xị xà nngầu. Giết nhau chẳng dụng lưu cầu, giết nhau bằng cái ưu sầu độc hơn. Anh em một nhà mà sao anh nỡ hại em?
“Chào Kiệt”. Lệ Dung buông tiếng chào tôi nhỏ xíu rồi e lệ cúi đầu, tóc mây lòa xòa trên trán ngọc. Gương mặt nàng bầu bĩnh tươi tắn, mắt nhìn thùy mị nhung êm. Đôi vai nàng nhỏ nhắn buông xuôi trên thân mình mũm ma mũm mĩm ở cái tuổi vừa mới lớn. Suối tóc nàng suông dài thả kẹp thấp ngang lưng tỏa ra hương thơm kỳ bí làm tôi chóng mặt. Mỗi lần nàng niễng đầu , suối tóc đen tuyền uốn éo dựa theo quấn siết lấy con tim của dũng tướng học trò mà bóp thắt. Tôi lí nhí chào nàng rồi cũng không biết nói gì hơn. May thay Lộc đã nắm tay dắt nàng tháo lui xuống nhà dưới. Tôi ngó theo suối tóc huyền mút mắt, trong lòng đã thấy bận bịu bồi hồi không yên. Ngồi lại một mình tôi gọi nhỏ: “Lệ Dung!” Giọt lệ sương mong manh trên cánh hoa phù dung vừa hé nụ lúc trời hừng sáng, hay ngấn lệ nõn nà đậu trên một dung nhan kiều diễm? Lệ Dung...!
Tôi ngó vào tập vở học trò chữ nghĩa chi chít của mình mà không còn bụng dạ nào học bài nữa. Có học cũng không vô. Tôi vói tay nắm lấy cây đàn măng-đô-lin trên bàn ôm vào lòng mình run lẳng tẳng một khúc Ai Về Sông Tương giải muộn: Ai có về bên bến sông Tương, nhắn người duyên dáng tôi thương, sao đành nỡ dứt tơ vương? Tháng với ngày mơ nhuốm đau thương, mơ hoài hình bóng em luôn...
Ngày hôm sau Lộc mượn được ở đâu về cây lục huyền cầm và hai anh em nhà họ Lê hòa tấu mấy khúc đặt diìu cho mỹ nhơn Bến Tre thưởng thức. Cao hứng Lộc hát tặng nàng bản Thu Quyến Rũ. Lộc hát rất hay—còn tôi thì hát dở ẹt. Lộc đã từng lên sân khấu những dịp bãi trường cất giọng thiết tha hái rụng trái tim của mấy em bé nữ sinh xinh xắn và ham mê văn nghệ. Chẳng những đàn hay hát hay hơn tôi mà Lộc còn trắng trẻo đẹp trai hơn tôi. Ganh đua với Lộc trên mặt trận tình ái là kể như chắc chắn nuốt hận đêm dài và lãnh chiến thương tình ái khó thể phai mờ. bao nhiêu hoa khôi ở Vĩnh Long như Liệt, Nhan, Đẹp, Xuân, Đào, đều rúng động con tim vì kép độc hết ráo. Chưa đủ bây giờ tới hoa hậu Bến Tre. Đi tới đâu chàng cũng mão sòng mỹ nữ hết trọi.
Tôi lén đọc nhựt ký của Lộc thấy chỗ nào chàng cũng “xin quỳ xuống và đặt trái tim dưới chân Hoàng Hậu” thì thử hỏi người đẹp nào mà cự tuyệt chàng cho nổi. Tuy nhiên tôi chỉ âm thầm đau khổ thôi chớ ganh ghét Lộc thì không hề có. Lộc được cái tánh rất thảo ăn. Khi nào có người yêu mới là chàng xách về khoe với em mình liền. Đưa ảnh người yêu cho chị xem, cả thư người ấy gửi cho em, y như anh chàng Nguyễn Bính lẫm cẩm.
Sau màn Thu Quyến Rũ, kép độc yêu cầu cô Ba Bến Tre hát tặng hai anh em nhà họ Lê một bản. Tôi trê-ma-lô ròn rã, Lộc đệm tây ban cầm sầm sập, Lệ Dung cất giọng trong trẻo: Người hẹn cùng ta đến bên bờ suối, rừng chiều mờ sương ánh trăng mờ chiếu... Trăng Mờ Bên Suối, ôi tình tứ xiết bao! Thỉnh thoảng khi dứt câu hát Lệ Dung còn đưa mắt long lanh liếc trộm người yêu khiến tôi bủn rủn trê-ma-lô cứ vấp tới vấp lui từng chập. Nhưng cũng phải ráng lết tới cùng cho đẹp lòng Lệ Dung. Dứt bản, tới phiên chàng và nàng yêu cầu tôi ca mới chết một cửa tứ. Là giết đời nhau đấy biết không? Dũng tướng học trò bèn cự tuyệt. Ai ép ta hát thì trước hết phải bước qua xác chết của ta đã! Tuy nhiên trước lời ỉ ôi ngọt ngào của người đẹp mà tôi thầm mơ ước, tôi đành nhượng bộ và đề nghị hợp ca bản Con Đường Vui, tôi xung phong xin hát bè hai. Dạo nhạc rùm rụp xong khúc mở đầu, ban hợp ca Thăng Long tỉnh lẻ hòa giọng nam nữ cất lên: Đoàn người tưng bừng về trong cơn gió, hồn như đám mây trắng lững lờ, giang hồ không bờ không bến đẹp như kiếp bô-ê-miền...Khúc đâu Hán Sở chiến trường, nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau. Khúc đâu Tư Mã Phượng Cầu, nghe ra như oán như sầu phải chăng? Tôi xáp vô bè hai: Đoàn ta! Vui bước lên đường mưa gió về, còn nghe vang dư âm bao lời ca sông núi!...
Dứt bản ai nấy đều hả hê. Riêng tôi nhìn Lệ Dung đẹp dạ tôi cũng vui lây và thơ thới trong lòng. Lộc ban phát lời ngợi khen hết cả ban hợp ca, rồi lật tiếp tập nhạc lựa bài Dư Âm, Lộc tự đệm đàn và hát một mình. Lệ Dung nhoẻn miệng cười xinh xắn ngước mắt ngó lên nhìn anh tôi tình tứ. Tôi thở dài ôm lấy cây đờn măng-đô-lin siết chặt trong lòng mình đau điếng.... Đàn tôi đứt hết dây rồi, không ai nối hộ không người thay cho. Rì rào những buổi gieo mưa, lòng đơn ngỡ tiếng quay tơ đằm đằm. Ôi Lệ Dung ơi có thấu?
Tối đến má tôi đày anh tôi xuống ngủ ở nhà dưới, còn Lệ Dung thì được bà bắt cóc tấn ở ghế bố sát vách gỗ trên gác, bà bắc ghế bố khít rịt sát bên nàng để cản trở lưu thông. Chuột kêu chút chít trong rương, anh đi cho khéo đụng giường mẹ hay. Tôi thầm cám ơn má tôi đã có sáng kiến tân kỳ. Tôi cũng ngủ trên gác, nằm ở đi-văng phía trước, cạnh bàn học. Kế đó là vách ván ngăn hai bày biện bàn thờ Phật, bàn thờ Quan Công và bàn thờ ông bà. Rồi phía đàng sau vách mới tới hậu liêu của má tôi và Lệ Dung. Nằm chèo queo một mình, tôi lăn trở thao thức. Tiếng người ho trong đêm, tiếng thằn lằn chắc lưỡi, tiếng chân ai rón rén lên xuống ở cầu thang tôi đều nghe hết thảy. Rồi nghĩ quẩn, rồi tưởng tượng, rồi đau khổ. Âm thầm đau khổ trong đêm tối. Ước gì mặt trời mọc lên ngay trong lúc đó. Ngọn đèn hột vịt chong trên bàn thờ hắt hiu leo lét. Cũng như ngọn lửa lòng của tôi. Canh khuya thắp chút dầu dư, tim can chóng lụn anh sầu tư một mình...
Những ngày kế tiếp, Lộc lại lên đường cứu nước, tiếp tục sứ mạng phiêu lưu chính trị cao cả của mình như Lộc đã từng thốt lên. “Đời tôi là cả một bài thơ, cả một bài thơ rũ bụi mờ, cả một bài thơ không đầy ý, là đời nghệ sĩ sống vì mơ.” Lộc đi gặp gỡ các dũng sĩ đồng chí hướng khác để in truyền đơn kêu gọi học sinh bãi khóa. Bản truyền đơn được viết bằng loại mực tím đặc biệt trên nền giấy dầy có thể chuyền sang mặt bột ướt. Sau đó cứ lấy giấy trắng áp lên mặt bột mà vuốt là có được bản sao. Dễ ợt—mà nguy hiểm vì công an không ngớt rình rập.
Riêng tôi không bị thấm đòn sách động nên thừa lúc Lộc vắng nhà để chuyện vãn với Lệ Dung. Tôi phải căn dặn trước con tim mình đừng có nhảy cỡn loạn xị để tôi còn có đủ hơi sức mà ăn nói tỉnh táo với người dđẹp. Dặn là dặn chơi vậy thôi chớ tôi dư biết con tim mình vẫn cứ đập theo nhịp điệu tự nhiên trời đất sanh ra của nó, chẳng ăn nhậu gì với ý chí của tôi hết. Ở nhà một mình để giải khuây Lệ Dung mua một cái áo gối bằng vải trắng và nhờ tôi vẽ hai chữ gô-tích mỹ thuật L và D quấn tít vào nhau để nàng thêu tấm lòng của nàng lên mặt gối bằng chỉ hồng. Tôi cắn răngg cầm bút chì vẽ vời trên mặt gối vì Lộc đã trót khoe tôi vẽ vời rất có năng khiếu. Lệ Dung kiên nhẫn luồn kim thêu thùa để ngóng đợi chàng dũng sĩ trở về. Còn tôi, tôi kiên nhẫn ngồi cạnh bên ngó nàng âu yếm thêu áo gối tặng cho người yêu dấu. Con tim vốn đã rướm máu sẵn từ khuya giờ đây lại càng thêm bầm vập.
Chuyện vãn được biết nàng có một người chị và một đứa em cỡ tuổi tôi—thôi rồi dũng tướng đệ ngũ kể như tiêu tùng! Bắt qua văn nghệ, Lệ Dung nói nàng thích truyện Hồn Bướm Mơ Tiên, nàng ưa đọc Khái Hưng, Nhất Linh và yêu tùy bút của Thạch Lam. Trong lúc đó tôi vẫn hãy còn quanh quẩn với truyện Đồng Quê của Phi Vân và ba cái văn chương miệt vườn, Ngọn Cỏ Gió Đùa của Hồ Biểu Chánh. Tuy nhiên tôi đột nhiên nhớ ra câu văn xuôi không biết của văn sĩ nào đó mà tôi rất ưa thích. Tôi đọc cho nàng nghe” Lệ Quyên một sớm sang Hồ Hán, một chiều trở lại Hồ Tây, ngược xuôi xuôi ngược, tuy chung nước đổ một dòng mà bèo bọt vẫn đi về muôn ngã.” Văn chương như vậy thiệt là mùi tận mạng. Tôi hỏi nàng có thích không? Nàng yêu cầu tôi đọc lại và nàng gật đầu tán thưởng. Rồi nàng cúi đầu xuống đưa răng ngọc cắn lên sợi chỉ hồng, suối tóc huyền uốn éo tỏa ra hương thơm ẩn mật. Tim tôi lại cỡn lên chấn động. Tất cả mùa Đông đaan áo len, cho người tất cả người quen. Còn tôi người lạ, có cũng nên mà không cũng nên! Tôi dợm đứng lên, nàng ngước mắt nhung hỏi tôi tính đii đâu vậy. Tôi nói tôi không tính đi đâu hết. Rồi thẫn thờ ngồi xuống trở lại bên cạnh nàng như trước. Chết bỏ!
Tối đêm đó tôi lại nằm chèo queo một mình và tưởng tượng. Tâm sự rối nùi. Tay chân lạnh ngắt, ruột tôi chơn quặn lên đau thắt dữ dội., mình vã mồ hôi, tưởng chừng bụng mình sắp nứt làm hai phơi hết tim gan mình ra cho mọi người ngó thấy. Tôi thường có những cơn đau đứt ruột khi lòng mình quá xúc động. Đau chết giấc. Hết thuốc chữa. Tôi chỉ còn nước ôm cứng giấy bụng mình mà cắn răng chịu trận, không dám rên rỉ. Tôi chỉ còn nước ôm cứng lấy bụng mình mà cắn răng chịu trận, không dám rên rỉ sợ gây huyên náo làm mất giấc ngủ mọi người và đánh thức Lệ Dung.
Chị cho em chị chiếc khăn thêu, ý chị thương em khóc đã nhiều. Khóc chị ngày xưa, giờ lại khóc cho mình khi tắt một tình yêu... Ờ nhỉ! Sao tôi không nhân dịp Lệ Dung thêu thùa mà nhờ nàng thêu cho mình một chiếc khăn tay bỏ túi làm kỷ niệm? Trong đêm tối đen mấy câu thơ của sư phụ chợt lóe lên trong trí tôi và gợi ý. Sáng hôm sau, chờ lúc anh tôi lên đường cứu nước, tôi ngỏ ý khăn thêu với Lệ Dung và được nàng ưng thuận. Nàng lấy một chiếc khăn tay trắng còn mới nguyên có thêu viền chỉ xanh lục xung quanh và biểu tôi vẽ một chữ K lớn ở góc trên. Tôi làm gan đề nghị nàng thêu chữ ký tên Lệ Dung ở góc đối diện cho người ta được biết tác giả. Và nàng cũng ưng thuận.
Nàng lại bắt đầu chăm chỉ thêu thùa chữ cái của tên tôi với chỉ thêu màu xanh lục—một cây xanh dờn cho mát lòng dũng tướng. Tôi lại ngồi bên cạnh nàng và mở tập thơ Lỡ Bước Sang Ngang của sư phụ mình ra đọc trang từng trang một cho nàng nghe. Thỉnh thoảng nàng dừng thêu thở dài. Mắt quầng tóc rối tơ vương, em còn cho chị lược gương làm gì? Một lần này bước ra đi, là không hẹn một lần về nữa đâu! Có phải khi th dài sườn sượt như vậy Lệ Dung đã linh cảm mơ hồ điềm ly biệt? Sau này khi Lệ Dung khăn gói từ giã nhà họ Lê trở về Tề quốc rồi thì tôi không còn bao giờ được gặp lại mặt nàng một lần nào nữa hết. Cũng là thôi, cũng đã đành! Sang ngang lỡ bước riêng mình chị sao? Nàng để lại cho anh tôi một tấm ảnh trắng đen chụp nàng đứng cạnh bên nhà thủy tạ cất bằng gỗ xoải mình ra giữa hồ sen trong thành phố Bến Tre. Sau lưng nàng, hàng hàng lê liễu xõa tóc sương mai buông rũ xuống mặt hồ lăn tăn dợn sóng. Lưng ảnh Lệ Dung có đề mấy dòng chữ tạ từ viết tay bằng mực tím: Nàng liễu rũ vì cơn gió dập, hay vì hoa đã lỡ làng duyên?” Tuy không hiểu rõ nàng muốn nói gì, tôi cũng lén ăn cắp tấm ảnh đó của anh tôi và giấu kín kỷ niệm Lệ Dung còn phưởng phất dư hương quấn quít trong mái tóc nàng làm của riêng.
Bỗng Lệ Dung la “Ái!” lên một tiếng tiếp theo tiếng pháo lớn chợt nổ trước nhà. Nàng buông rơi chiếc khăn thêu luống cuống nắm lấy đầu ngón tay bị kim đâm vào rỉ tuôn máu đỏ lúc nàng giựt mình vì pháo nổ. Một cách máy móc tôi chụp đầu ngón tay nàng đút vào miệng mình như những lần tôi bị đứt tay chảy máu. Nàng cũng để yên không rút lại. Hương thơm bí mật của bàn tay nàng cận kề sát bên mũi tôi hơn bao giờ hết. Mắt nhung nàng ngó thẳng vào mắt tôi. Tôi chóng mặt, tim tôi đập mạnh bấn loạn không còn giữ được trật tự nhịp nhàng gì nữa. Hương thơm Lệ Dung mằn mặn ở đầu lưỡi... Trời ơi! Ngay lúc này giá mà tôi có thể ăn thịt được nàng! Cho dù sau đó có bị kết tù chung thân khổ sai và lưu đày biệt xứ tôi cũng cam chịu.
Tôi đứng dậy tìm băng keo rịt đầu ngón tay lại cho nàng. Cuộc thêu thùa đành ngưng lại lưng chừng, lỡ dở. Để dằn cơn xúc động, tôi bỏ xuống đường và đi lang thang trong thành phố buổi chiều chúa nhựt với dư vị da thịt nàng còn ám ảnh đuổi riết trên môi. Ôi! Lệ Dung....
Sau bữa cơm chiều, anh tôi lại đưa nàng đi dạo mát như thường lệ. Tôi thua buồn leo lên gác ra ngồi ở bực cửa sổ ôm cây đờn măng-đô-lin run khua lẳng tẳng. Dư hương Lệ Dung vẫn còn bồi hồi chưa dứt. Tôi bần thần chưa tỉnh, Trong bụng rưng rưng. Tôi đờn đi đờn lại những ca khúc lãng mạn. Rồi yên lặng ngó lên một vì sao đơn chiếc đang mọc cao trên nền trời thăm thẳm. Anh Hai Te đã về thăm nhà hồi sáng hôm nay. Tôi nhớ và thèm tiếng ca tài tử của anh. Anh cũng có dạy cho tôi hát và đờn thuộc lòng được câu đầu của bài vọng cổ . Tôi ướm thử giọng rồi cất tiếng ca lên một mình:
“Lệ Dung em ơi! Sao em nỡ đan tâm lòng quyết (yết) sang (ơ ơ) Tề...”
Chợt trong vùng ánh sáng bất định một hương thơm quen thuộc thoảng dậy lùa tới bên mũi tôi. Tôi giựt mình ngó lại. Trong vòm hương tỏa ngất ngây Lệ Dung đã xuất hiện đứng đó tự bao giờ. Nương theo một phép nhiệm màu, từ Suối Đào Nguyên nàng thình lình giáng thế. Tôi chới với thiếu chút nữa đã té ngửa qua mái ngói của nhà hàng xóm cạnh bên mà lăn lông lốc rơi tuốt luôn xuống đất. Tôi lặng thinh ngó nàng lung linh trong vùng ánh sáng mờ yếu của ngọn đèn dầu. Nàng bước tới gần cầm chiếc khăn tay đưa ra cho tôi nói hồi chiều nàng đã thêu xong. Tôi đưa tay cầm lấy rụng rời. Yên lặng nàng ngó tôi vài giây rồi chợt cất tiếng nhỏ nhẹ hỏi tôi sao ca bài đó làm chi cho thêm buồn bực? Tôi còn đang bối rối chưa biết trả lời cách nào thì nàng đã vội vàng quay gót son mềm chạy xuống cầu thang như vừa chợt hiểu. Một cơn gió Xuân mát lạnh từ bên ngoài cửa sổ thổi ùa tới làm tôi rùng mình.
Rồi một ngày qua hai ngày qua....
Và giờ phút biệt ly đã đến. Má tôi, Lộc và tôi đưa nàng ra tận bến xe đò để tiễn chân. Lệ Dung về Tề quốc. Tay nắm không buông. Mắt nhìn bịn rịn. Lời nói nghẹn ngào. Lệ tuôn lã chả. Ôi! cái cảnh biệt ly sao mà buồn vậy?
Tàu chạy hình như để chở buồn, chở người đi nhớ kẻ về thương, nâng bao nhiêu gót chân xinh đẹp. Tàu chạy đêm nay có lạc đường? Lệ Dung ngồi sát bên cửa xe thò mái tóc kẹp uốn éo buông lơi ra ngoài và nắm lấy tay má tôi mà khóc như mưa bấc. Lộc đứng khít bên má tôi. Còn tôi thì lùi ra xa trên bờ lề đứng dựa lưng vào một gốc cây me già mà ngó, sợ e đứng gần giai nhân cầm lòng không được tôi phát buông ra những lời nhảm nhí càng gây thêm bối rối cho tất cả mọi người. Hay lại phát thinh ré lên khóc càng thêm quê một cục. Nhìn Lệ Dung lã chã má tôi cũng rút khăn ăn trầu ra mà lau lệ không ngớt. Thế nào má tôi cũng chúc nàng thượng lộ bình an và hứa hẹn khi nào nàng học thành tài xong rồi thì má tôi sẽ cưới nàng về cho anh tôi để cho nàng trở thành một trang hiền phụ. “Em muốn vô làm con dâu thảo cho phụ mẫu mình. Trước coi gia cang bề thế sau nấu đôi bình nước khuya”. Má tôi vốn là người quê mùa nên vẫn hằng tin tưởng rằng yêu nhau là phải có thủy có chung.
Nhưng những giọt nước mắt cho dù có thổn thức ngậm ngùi cách mấy cũng không thể nào thay đổi được giờ giấc của những chuyến xe đò. Xe bắt đầu rồ máy xịt khói xanh um và dợm bánh lăn tới lăn lui. Rồi xe bắt đầu lăn bánh thiệt sự. Má tôi và Lộc đành phải buông tay nàng ra. Lệ Dung đưa tay lên cao vẫy chào biệt ly mọi người. Tôi cũng vội vàng đưa tay lên vẫy vẫy cho tới lúc nàng khuất bóng sau vòm khói xe tỏa xanh mù mịt. Lệ Dung! Lệ Dung! Thôi giã biệt! Cõi lòng của Lộc chưa chắc tan nát bằng cõi lòng của đứa em mình.
Lững thững tàu đi mất nữa rồi, sao không dừng lại ở ga tôi, lấy mươi lăm phút cho tôi gửi, chút ít xuân xanh trả lại trời? “Lệ Dung một sớm sang Hồ Hán, một chiều trở lại Hồ Tây, ngược xuôi xuôi ngược, tuy chung nước đổ một dòng mà bèo bọt vẫn đi về muôn ngã...”
Anh Hai Te đã trở lại trại mộc từ sáng hôm nay. Tối hôm nay, cũng như mọi tối, sau khi cơm nước xong, anh ôm cây đờn vọng cổ ra ngồi ở đống cây trước nhà ca vài khúc ca giải muộn.
Và tối hôm nay, cũng như mọi tối, tôi ra ngồi ở bực cửa sổ trên gác cao mong ngóng. Nhưng tối hôm nay, khác hơn mọi tối, tôi có thêm được chiếc khăn tay mà Lệ Dung đã nhỏ giọt máu đào thêu tặng cho tôi. Anh Hai Te bắt đầu dạo nhạc và nói lối. Áp chiếc khăn thêu nồng ấm lên mũi mình, dư hương kỳ bí của Lệ Dung vẫn còn ngạt ngào nguyên vẹn. Khi anh Hai Te dứt phần dạo nhạc và cất tiếng ca tài hoa xuống câu vọng cổ ngậm ngùi thì hai giọt nước mắt nóng hổi của tôi cũng bật trào theo lăn ròng ròng xuống má. Thôi rồi! Nương tử Lệ Dung đã đành bước lên kiệu hoa đem tấm thân ngọc ngà về xứ khác.
“Lệ Dung em ơi! Sao em nỡ đan tâm lòng quyết (yết) sang (ơ ơ) Tề...”

No comments: