Saturday, June 28, 2008

Trong tầm tay

khi bốn bề chúng ta có mã tấu và
súng đen
nhiệm vụ của chúng ta là giữ mảnh đất này
mặc cho chúng nó âm mưu xách động
quần chúng
nhiệm vụ của chúng ta là giữ ngọn đồi này
mặc cho chúng nó đang âm mưu lật đổ
chính phủ
nhiệm vụ của chúng ta là giữ vòng rào gai
này
mặc cho chúng nó đang làm áp lực ngoại giao
nhiệm vụ của chúng ta là giữ căn đồn này
mặc cho chúng nó đang âm mưu một quả
bom nguyên tử thứ ba
nhiệm vụ của chúng ta là giữ khẩu đại liên
này
mặc cho chúng nó đang lên giàn hỏa tiển
liên lục địa
nhiệm vụ của chúng ta là giữ khẩu đại liên
này
mặc cho chúng nó đang chữa lại câu văn của
một bản thông cáo chung

Bốc cháy

tặng lính Thạch Chương

vỗ cánh từ một đam mê
con cá biếc cất mình thoát khỏi đại dương
ngoạm vào không khí mặn
mũi dao nhọn nhảy nhót trong tim thì thầm
này tim ơi tim ơi
mắt mở cửa dắt vào môi cười
không còn gì
không còn gì là tuổi nữa
trìu mến
tiếng ca hô hấp từng nốt nhạc
khui máu cổ tay đắm mình trong dòng điệp
khúc
đêm vẫn đen
từng khẩu đại liên từng ổ trọng pháo
nã đạn như điên
quay đều quay đều vẫn quay đều
33 – 33 vẫn 33 tours

nhổ neo từ một đam mê
nhựa nóng thèm thuồng bốc cháy từng
gân lá

mỗi bàn tay hoa
buông mình trong chuỗi phản ứng dây chuyền
hủy thiêu mình thường xuyên để sống

phóng đi từ một đam mê
con chó hoang mài miệt đuổi theo thèm cắn
lấy đuôi mình
bằng một đam mê
chỉ cần một đam mê
kết liễu

1965

Thành phố anh đến

1

khi ngồi xe đến thành phố nào anh vẫn
thường nhắm mắt tưởng ra người đàn bà sẽ
ngủ với anh nơi đó anh nắn nót pho tượng khỏa
thân ấy trong đầu môi mắt em nhiệt tình hơn
một chút môi em đầy hơn một chút đùi em thon
dài hơn một chút đôi vú em no tròn một
chút tóc em điên cuồng hơn một chút

xe bắt đầu vào thành phố anh nhìn quanh thầm
hỏi em đang ở đâu đó trong căn nhà bên trái ở
góc đường không nhìn thấy đằng cuối phố em
đang làm bếp em đang viết nhựt ký em đang
đọc thư tình nhân mà em sẽ bỏ rơi em đang
tắm em đang ngắm nhìn thân thể em với những
ý nghĩ làm em nóng mặt em có hay rằng đời em
đang khởi sự đổi thay em có hay rằng anh
đang vào thành phố em cư ngụ

2

có thể anh sẽ gặp em ngoài đường hay trong
hiệu cà phê bên bờ sông trong rạp hát giữa
một lâu đài thắp đèn tím ngát trên chuyến ô tô
buýt thưa trong gian nhà chứa vách gỗ hay
trong căn phòng chật ních tiếng kèn đêm nào anh say
rượu hết biết đường về anh bíu lấy cổ em
khóc kể thảm thiết những khổ đau anh tưởng
đã phóng thích khỏi tù trí nhớ

anh hồi sinh trở lại nhìn anh chua xót lặng
người

3

những ngày tuyết lớn những chiều mưa mù em
bỏ hết quần áo lên nằm đầu dụi vào nách anh
em gọi từng cử động từng bộ phận bằng tên
thật em kể lại những chuyện vui chuyện buồn
đời em giọng trầm không buồn không vui em
mỏi mòn thiếp đi trong giấc mơ nào đó động
đậy sau mí mắt anh nào biết được
anh làm tượng gỗ bị tước đoạt quyền năng buồn
rầu nhìn em bơi lội trong chu vi tiềm thức em
vách đá

lúc đi lúc đứng lúc ăn lúc nằm khi điểm trang
khi mặc quần áo trong giường ngủ bên cửa sổ
ngoài bao lơn em đong đưa hoài một bài hát
mà sau này khi thoáng nghe anh tê tái ngắm
anh lụn héo đoạn ngày trong cảm xúc thạch băng

4

mùa mưa trở về rồi đó em

cuộn theo cơn buồn dã dượi anh buông mình
lắc lư cũng đoàn xe ô liu diễn hành qua thành
phố lạ trên vĩa hè người ta mua bán trẻ con reo
hò đường nhựa chạy trốn vào ngõ đá căn gác
tối bên trái các bar thấp vẫy mười ngón tay néon
mầu rạp hát cải lương dục dồn tiếng trống anh
thèm thuồng được chua xót hồi sinh dù chỉ một
tối một giờ một phút hay một phần mười giây
anh thèm chép cho em thơ nguyễn bính hay
thanh tâm tuyền để em đọc cho đỡ nhớ vào
những giờ thành phố giới nghiêm và cũng có
thể để mai kia mốt nọ em dỗ em quên đi động vật
trong vòng tay em ôm ấp một ngày một tháng
một năm hay khi mùa mưa từ giã gã tình
nhân mang về cho em một thân thể không còn
nguyên vẹn nằm bất tỉnh trên chiếc xe mở cờ
vụt vã xô lại thành phố lạ chiều nay lúc đêm về

hàng xanh 1966

Trong bar tối

đèn đỏ nhạc thuốc lá
em ngồi đó anh ngồi đó chúng nó ngồi đó
một đứa chạy vào thét:ra coi cháy nhà bên
khánh hội kìa cháy lớn lắm!
một đứa lè nhè bên cạnh anh: vợ tao vừa đẻ
con trai tao phải đã một bữa mới được
thằng bạn anh mở ví: mầy coi bồ tao nầy chịu
chưa? mẹ nó!

tiếng nhạc tiếng nhạc và thuốc lá
em ngồi trước mặt anh giũa móng tay
những chai bia bắt đầu luân lưu trong đầu anh
đẩy đưa thân thể em tụt hết quần áo ngực em
chắc không phải cao su
trong căn nhà lá nào đó ở khánh hội một bà
lão què hết hai chân cả đời - chẳng biết tại
sao phải què – đưa hai tay que củi đỡ lửa
táp vào một thằng bé nào trong lòng đang
khóc bỏng da
chiếc xe đâu đó không ngớt lải nhải: nay tuyên
bố tình trạng khẩn trương trên toàn lãnh thổ…
vân vân…nhạc và thuốc lá
em nói lớn một chút đoàn xe mười bánh
chẹt chết tiếng nói em
ôi em hãy ra nhìn mặt từng người có đứa
nào là tình nhân của em không
em hãy đến nhận diện từng xác chết có cha
chúng ta có anh chúng ta có thằng em trai
của chúng ta không em

vẫn nhạc và nhạc
những tên da mun bên máy hát không ngớt
mê say run nhảy theo nhịp điệu rất cũ của
ông cha chúng nó ngày xưa tạ ơn lửa thần
ban cho sự sống đầu tiên nóng hổi

vết xe lún xuống bỏ quên đằng sau đôi mắt
trống rỗng của người cha tóc trắng vừa nhìn
mặt đứa con trai cuối cùng vinh thăng cố
thiếu úy không ngớt lẩm bẩm một mình sao
con chết trước ba
nó ngồi đó thở than bồ nó ngủ với thằng
khác
những mái tóc cỏ non không ngớt lắc lư
cùng nhịp với chiếc nồi kim khí bao lưới
nó ngồi đó nhậu đã vì vợ nó hôm nay đẻ
con trai
những ống sắt đen lao nặng sẽ đến ho rũ rượi
tại một cánh đồng bỏ hoang nào đó chúng ho
ra máu óc ngực tim sứt mẻ của chúng ta
đứa con gái ngồi cạnh em không mặc sú chiêng
đôi vú măng non vẫn trưởng thành bất chấp
tình trạng khẩn trương – nó đang mơ xé
toang lớp áo kia để chạy đến một cánh đồng
bàn tay phì nhiêu nơi đó dục vọng mọc lên
lõa lồ và giản dị
bà lão vẫn ngồi đó hai chân vẫn què hai tay
vẫn quơ lửa vẫn táp và đứa nhỏ vẵn nằm
đó vẫn khóc
bọn da đen vẫn không ngớt múa tạ lửa thần
anh vẫn không ngớt mơ tưởng em tụt hết
quần áo

đến heo chó gà vịt côn trùng cũng chết
trong trận giặc của chúng ta
ra mà nhận diện đi em
bên nầy chúng ta làm tình mà súc cảm
làm méo mặt
dưới gầm giường con chó bị xe chẹt hồi
chiều đang cào đất hấp hối
bên kia một đứa đang nói nhảm trong
những giấc mơ kỳ bí mà không đời nào
chúng ta được dự phần vào

1964

Trong cơn binh lửa

đêm hôm đó
khi trúng đạn người lính giận dữ
chửi thề
rồi phun ra một búng máu

sáng hôm sau
người nông dân mang cày ra đồng nhìn thấy
vũng máu
chửi thề
rồi xẻ đường cho máu đi vào đất
mạ gieo xuống
mạ không buồn đếm xỉa máu của bên này
bên kia

mạ mọc lên
bình thản
tốt tươi
khỏe mạnh

TẠC TƯỢNG 1965

này em hãy cầm lưỡi lê này gọt lấy hình
anh trên chiếc cột nhà cháy đỏ
với tiếng thở than nặn thành tai cho anh làm
quen với tiếng gào xé ruột
với viên đạn đồng lấp vào lỗ mắt để anh
chỉ còn nhìn thấy tử huyệt của con người
hai lốp xe này làm phổi cho anh thở được
muôn ngàn chất độc
hai bàn chông này làm răng để cắn vào thịt
da cho ngọt
hãy đổ vào ruột anh chất săn đặc đỡ lòng
cơn đói sống đang cồn cào trong khắp mạch
máu anh
với chất cường toan giúp anh tiêu hóa nốt
những mẩu xương rung động còn mắc lại vài
kẹt hóc trong người
hãy lấy dây xích chiến xa này vận chuyển
bộ máy suy nghĩ trong đầu anh rỉ sét
với quả lựu đạn này làm tim cho anh được
nổ tung nát bét khi nào anh đánh rớt quả
tim anh
và với dùi ma trắc này làm bộ phận làm ái
tình để anh đàn áp bản năng nhục thể
cho anh và em khỏi phải tạo thêm những
đứa con mệt mỏi trong cuộc chiến tranh
nhàm chán hôm nay

ĐỘNG ĐÁ

vẫn cứ chờ cứ chờ
có bao giờ mây xuống đây với thung lũng
thung lũng huyệt sâu như biển cả

những nhánh cây xanh trổ trái dơi đen đầu
trút xuống đất đôi mắt không ngớt nhìn
và ưu phiền ung nở trong kẽ đá
dĩ vãng từng nhát dao chém xuống bùn sủi bọt
bọt vỡ nước bốc hơi đất rắn khô dao rỉ sét
vúi chôn tên em trong thành phố đất nẻ
ngàn đời em nằm đó làm gì

gục đầu xuống phì nhiêu đam mê
nhựa chảy mạnh thân cây mùa xuân
tóc anh trổ nhánh cành chằng chịt bao bọc
mặt trời khuất lấp côđơnđỉađóikhátmáuanh
nụ cười cây mắc cở sẩy ra ngoài trí nhớ

trả lửa cho thượng đế
trả năng lượng cho nguyên tử
trả bom nguyên tử cho einstein
trả triết lý cho platon
trả thiên đường cho cộng sản
trả ưu tư cho già nua
trả buồn nôn cho tuổi trẻ
trà trí nhớ cho dĩ vãng
trả xác chết cho hitler
trả trái táo cho chúa trời
cởi toang quần áo đi thong dong trong sàigòn
trờii gió nóng mắt vùi bụi
nhớ tới em nhớ con khỉ sở thú nhớ chấn song
thẳng đứng của loài người lành mạnh
các vùng cấm địa ác mộng cởi trói

em hụt tay té xuống thung lũng
những cánh dơi đen thảng thốt bỏ chạy
chân đất thơ ngây mình che da thú
em quên cười quên khó quên kẽ đá quên cây
xanh quên con khỉ già sau chấn song song
song

và chiều chiều anh vác chày đá đến đập cửa
động em
kêu đầy thung lũng
bớ em bớ em
hãy ra đây cùng anh tình tự

1963

SỰ VẬT VÀ LỜI NÓI

với Thạch Chương và Lộc


là mê cung trong suốt
là cơn lốc bất động
là dan díu lãnh đạm
là chấn động bình thản
là ánh sáng mù lòa
là đối thoại câm điếc
là cái chết hồi sinh
là diễn tả phủ nhận diễn tả
là chữ viết phủ nhận chữ viết
là chúng ta phủ nhận chúng ta

mọi lời nói chỉ có tác dụng làm tối nghĩa
và nỗi bất lực từ đó

1965


CON VỊT SỞ THÚ

con vịt chắp tay sau đít đi vòng vòng ngó từng
chấn song sắt và nói cạp cạp cạp cạp
ở một góc chuồng con già đãy hói đầu hói lông
cố mắt kèm nhèm rụt đầu giữa hai vai lầm
nhầm ta từ đâu đến đến đây làm gì và đi về
đâu yếu tính trước hiện sinh hiện sinh trước
yếu tính en-soi pour-soi
con vịt thọt cổ vô thò cổ ra và nói cạp cạp
cạp cạp
con công nhẩy lên nhẩy xuống xoè đuôi ra xếp
đuôi lại rồi xoè ra theo một thế khác nghĩ bụng
phải vươn tới cái đẹp phải vươn tới cái đẹp
tuyệt đối
con vịt nhẩy lên nhẩy xuống và nói cạp cạp
cạp cạp
con đà điểu dan hai chân ra chuyển vận các
bắp thịt thét lớn các người phải biết
sống hào hùng sống khỏe mạnh
con vịt vỗ cánh phần phật nói cạp cạp cạp cạp
con hạt trắng đứng riêng một mình ngước mỏ
lên trời trầm mặc ta phải về với thượng đế
về trong hào quang về trong ánh sáng
con vịt ngó qua ngó lại ngó tới ngó lui con
già đãy con công con đà điểu con gà con
hạt trắng con vịt chắp tay sau đít đi vòng vòng
ngắm những chấn song sắt mà nhức đầu, nó
đến bên hồ vốc nước rửa mặt, nó nắm chặt
tay lại và nước chãy hết ra ngoài, nó nhìn nó
dưới nước nhăn mặt thè lưỡi nói cạp cạp cạp
cạp…cặp cặp cặp cặp…cặcặcặcặp…rồi lăn
ra cười, cười chảy cả nước mắt nước mũi

VŨ ĐIỆU ĐÈN KÉO QUÂN

bung…bung…bung…bung…
bập bùng…bập bùng…

bắt đầu bằng đứa con gái sún răng đi giầy
vỏ chuối
nó hát rằng nó đẹp nó hát rằng nó mát
những chiếc răng gẫy nhấp nhô phím đàn
dương cầm
nó nhún chân nhẩy lên
va đầu vào bức tường âm thanh
ngã xuống sang sảng
bể nát như món đồ cổ

kế đó là đứa con trai
tay chống nạn tay cầm dao
nó hát rằng : ta tráng sĩ hề!
ta hề là tráng sĩ!
ta tráng sĩ là hề!
nó múa dao chém đông tây nam bắc
cây cỏ rụng đầu
những con voi điên chạy trốn trong mùng
nó hừng chí đá gió một cái
ngã vập mặt xuống đất
gẫy nốt chân kia như gỗ mục
nó nhặt lấy thở than : ôi chân gỗ!
rồi cười như máy

bung…bung…bung…bung…
bập bùng…bập bùng…

kế đó lão già lả lướt đi trên 10 ngón chân
lão giẫm phải râu
ngã xuống
đứng dậy
lả lướt
giẫm phải râu
ngã xuống
đứng dậy
cởi râu vứt xuống đất
biến thành con khỉ đột
chạy băng băng vô rừng già

kế đó là những bộ xương gồ ghề
cót két cót két
chúng nó vướng xích té sặc máu mũi
bọn thây ma tức tối kéo chân lên
gậm nát

sau chót là tôi
nhặt lấy dao múa một vòng rất tròn
hát một bài ca rất rườm rà rất tối nghĩa
xong quay lông lốc như con bông vụ
ngã sấp lên bãi cỏ xanh rờn
lưỡi dao ngập bụng kết liễu
đời tên độc tài
bạc nhược

bung…bung…bung…bung…
bongo! bongo!
conga! conga!
cha-cha-cha
flamenco!
và bắt đầu lại bằng đứa con gái

BẮT ĐẦU LẠI

mặt trời đập vỡ gương trên đồi
thung lũng chậm đêm ve vuốt
tháp canh vươn vai nỗi lặng câm
quả lựu đạn trở mình bên đốt xương sống
mưa trái sáng chiêu dụ lũ thiêu thân

và con dế đói lại đi quá giờ giới nghiêm
và chiến tranh lại điểm tâm no nê trong
lòng đại bác

MƯA CUỐI MÙA

tặng Phạm Đình Chương

mưa cuối mùa mùa mưa cuối cuối mùa mưa
mưa cưới mùa mùa cưới mưa
nói làm sao đây hỡi chương khi giọt rượu
đã ngủ gục trên môi khi ánh sáng không
còn là ánh sáng khi tiếng ca không còn là
tiếng ca đêm đêm nhìn mặt miccro nhổ ra
từng mảng phổi
khi đó người con gái lui vào bóng tối
ném nụ cười cùng mồ hôi xuống sàn gỗ “tu
gagneras ton pain à la sueur de ton front”
tiếng vỗ tay đì đẹt đừng ngó nữa nghe
chương chúng ta chỉ còn lại chiếc lưỡi tê
cứng này với cơn mươi cưới mùa xin lỗi
mua cuối mười cươi múa mùa mưa muối
cười xin lỗi xin lỗi

mưa cuối mùa mưa cưới mùa
đêm đó băng qua hẻm khuya dầm mưa
về gian nhà tối anh chợt nghĩ nếu tình yêu
không có trong cuộc đời này thì khốn nạn
biết mấy
đêm đêm anh chỉ còn là con
hình nộm nổi trôi từ căn nhà đến bực
hát từ bực hát đến căn nhà anh thảng thốt

mỗi cột đèn mỗi bức vách mỗi cánh cửa mỗi
ổ khóa là tiếng nguyền rủa không nguôi

vào một buổi trưa nắng nứt rạn anh nằm
một mình thoáng nghe nụ cười suối
mát chảy ngoài ngõ anh chợt nhớ bàn tay
bàn tay nào bối rối đôi mắt nào thơm ngoan những
hồi hộp bé con những lời không dám nói
hơi thở không dám gần bấn
loạn không dám đưa
anh biet rằng tuổi trẻ
mình tự bao giờ đã hết
chương ơi thôi đã hết

Sàigòn 1966
(Phạm Đình Chương mất năm 1991 tại Hoa Kỳ, 62 tuổi)

Monday, June 23, 2008

Dòng Sông và Con Thuyền Hai Mươi Tuổi

Lời tòa soạn :

Theo yêu cầu của một số độc giả, Ban Biên Tập Việt Luận có nhờ anh Lê Tấn Lộc truy tìm bài thơ đăng tải dưới đây, trích từ tập thơ “Điệp Khúc Tình Yêu và Trái Phá” của nhà văn Kiệt Tấn, xuất bản năm 1966 tại Sàigòn…
Chúng tôi được anh Lộc tâm sự khi gõ lại bài thơ nầy, từng phen anh phải dừng tay gõ, nghẹn ngào lau nước mắt. Anh cũng cho biết cứ mỗi lần đọc lại bài thơ nầy, không thể nào mắt anh không nhòa lệ, bởi lẽ toàn bộ gia đình của anh là nhân chứng sống của những cảnh thương tâm ghi lại trong bài thơ…
- Chuẩn úy Gia là bạn cùng xóm với KT, tử trận vừa đúng hai mươi tuổi, được vinh thăng thiếu úy dù chưa được lãnh lương chuẩn úy…
- Người anh hai trong gia đình KT, năm 1945 là liên đoàn trưởng liên đoàn thợ mộc kháng chiến chống Pháp. Anh mục kích cảnh các “cán bộVM” ra lịnh phóng hỏa lẫm lúa dùng làm trại giam, thiêu sống hàng ngàn thường dân bị nghi ngờ là Việt gian. Anh cũng chứng kiến tận mắt hàng hàng lớp lớp người bị trói thúc ké, lôi đi chặt đầu, bồi thêm chày vồ, đạp xuống sông…Đến độ anh gần như mất trí vì bị mùi máu và tiếng kêu la khiếp đảm của các nạn nhân thường xuyên ám ảnh…
- Người anh thứ ba thuộc đội võ trang tuyên truyền, thường xuyên chứng kiến cảnh những người tình nghi hoạt động cho Pháp bị kết tội kiểu đấu tố, bị xỏ xâu cho đi “mò tôm”…
-Cả gia đình KT đã trải qua một đêm kinh hoàng ở Hốt Hỏa, nằm im thin thít dưới ghe tam bản dùng đi tản cư, rụng rời nghe vang lên từng chập tiếng hét la “aaaaaa!!!…” thảm thiết của những người bị cứa cổ bẳng dao cùn trong đêm tối trăng tắt sao…

Bài thơ “Dòng Sông Và Con Thuyền Hai Mươi Tuổi” đã được Anh Thư diễn ngâm trên Đài Phát Thanh Sàigòn, năm 1967.

Những cảnh máu lửa tang tóc nầy, sau đó được KT cô động và khai triển lên chiều kích tang thương của cả dân tộc, dàn trải qua trường thi “Việt Nam Thương Khúc” 3100 câu , viết xong năm 1986, tại Paris …


****

Dòng Sông và Con Thuyền Hai Mươi Tuổi


Còn nhớ gì không Gia
trong những đêm đen nào
lũ chó mực cất cổ tru thảm thiết bên những căn nhà trụi nóc
Rồi theo đó chiến tranh trở về
với chiếc cày lửa và mầm đạn đồng
gieo mạ xuống ruộng vườn chúng ta
Nơi đó mọc lên những cây than đen tuyền
và lũ quạ mun ủ rũ đôi mắt tròn số không

Tiếng tru thất thanh của thời gian chó má
Từng bầy từng lũ bị đập đầu hy sinh cho cách mạng
Ôi vinh hạnh thay lũ chó!
Những con chết hụt trung tín chạy về
Chủ lại mang chúng đến nơi hành huyết
Đòn cây giáng xuống
con mắt văng ra rớt trên nền đất cứng
con mắt kia vẫn không ngớt phóng ra lời kêu cứu người
chủ thâm tình
còn nhớ không Gia?

Còn nhớ gì không
Những tầm vông vạt nhọn
những bầy chân đi trần
những lỗ mắt ngời ngời
những rừng đèn chai đứng dậy trong đêm khuya
đòi giải phóng
tự do
độc lập

Còn nhớ gì không Gia?
Tụi mình còn quá nhỏ để hiểu cách mạng, bầu cử, Việt
Minh, Quốc Dân đảng…
Tụi mình chỉ biết cơm bắt đầu khô
nước mắm hẹp hòi và những khoanh thịt bắt đầu thưa thớt
trong bữa ăn
Nhưng tụi mình khoái chí vì không phải đi học
đó là thời kỳ cha anh chúng ta thì thầm rất khuya bên ngọn
đèn dầu
đó là thời kỳ ruột xe đạp được cắt ra để làm cương ngựa

Còn nhớ không Gia?
Những mảnh ván vụn được ghép thành ghe
thành xuồng thành tam bản
những con tàu Noe hớt hải trên khắp các ngã sông
chở theo gạo muối gà vịt trẻ con bệnh tật và nỗi sợ hãi
kh ẳm khoang thuyền
Những mắt quạ tròn ngó theo
những con chim sắt săn mồi trên khắp sông ngòi làng
mạc
Chúng sà xuống xạ kích
và sau đó…còn nhớ gì sau đó không Gia?

Còn nhớ gì không?
Những người mất đầu vì cuốn văn phạm ngoại ngữ
Những người bị mổ bụng vì mặc biên áo trong có in ba màu
Những đứa con gái mười tuổi bị phá trinh
Những bà lão sáu mươi bị hãm hiếp
Lưỡi dao dài phạt ngang
Huỵch!
Chiếc đàu bạc rơi xuống như trái dừa khô
Còn nhớ không Gia?
đứa trẻ sơsinh nào chết cứng trên đồi vú xanh của người
đàn bà phọt óc.

Nhớ gì không nhớ gì không?
Những mái chèo đập xuống vùng nước mặn
khơi động những vì sao chi chít như mồ hôi rịn trên trán
nhọc nhằn
và tiếng hò trên sông khuya buồn đứt ruột
“hò ơ…ơ…ơ…
“chiều chiều chim vịt kêu chiều
“bâng khuâng nhớ bạn ờ…ờ…ờ…”
“hò ớ…bâng khuâng nhớ bạn ờ…ờ…
“chín chiều ruột đau ờ…ơ…ơ…”
Giấc mơ trẻ con bao giờ cũng đầy những khứa cá kho chim
muông và bánh trái

Nhớ gì không Gia?
Những lời nguyền thiêu trong lửa
Những phản phúc mặc áo bưng biền
Những Nguyễn Bình những Tạ Thu Thâu những Hoàng Thọ
Những người bị thủ tiêu trong rừng vắng
Những người bị phục kích trên đường về
Những người bị đánh cướp công lao
Những người chết không bao giờ nhắm mắt
Nhớ gì không
Những căm hờn nuốt trong ngực?
Nhớ gì không những trái bom hằn học
Hai tay chèo cuống cuồng mình mẫy quắp co trong cơn sốt
rét
Những người trang bị hai bàn chưn kinh
hoàng tranh nhau ngược chiều trên chiếc cầu khỉ ốm o
Những bà mẹ lặn qua sông như những con rái cá bị rượt nà
tay nầy cặp nách một đứa con tay kia nâng một đứa
nữa lên khỏi đầu

Nhưng tuổi thơ vốn rộng lượng
nhớ không Gia?
Tuổi thơ trốn cơn ruồng bố trở về vẫn ngủ nằm mơ
vẫn đắp đập bắt những con cá nhỏ
vẫn ngửa bàn tay cho dàn gà con đến ăn gạo
và vẫn trang điểm lại lùm cây cho con chim áo đỏ về làm ổ
Tuổi thơ vẫn sẵn lòng quên những phát súng những mũi
dao của bọn người lớn

Còn nhớ gì không Gia?
Tiếng thét thảm thiết chạy từ đầu kinh đến cuối kinh trong
đêm bất tận
“aaaaaa!!! Trời ơi đùng giết tôi! aaaaaa!!!...”
con dao cùn làm cá chém đến chiếc đầu thứ tư phải cứa
qua cứa lại nhặp nhằn
tiếng thét thảm thương của con heo bị thọc huyết túa ra trên
kinh dài hỗn loạn
họ không còn thì giờ để rèn dao giết người
Nhớ không Gia?

Nhớ không Gia?
Họ không có thì giờ để cắt cổ từng người một
Những người bị lùa vào lẫm lúa cửa khóa then cài
Lửa phóng thiêu rụi tiếng la thất thanh
Còn nhớ không?
Họ không có thì giờ đào những lỗ huyệt tập thể
Những người bị bắt quỳ bên bờ sông
lưỡi phảng phạt xuống trúng tai trúng cổ trúng vai trúng
lưng mặc kệ
phát chày vồ xáng lên đầu tức thì và chưn đạp tiễn họ
xuống sông những đầu người còn trồi lên:
“Đ.m. tụi bây, giết tao sao không giết cho thiệt chết?”
Dòng nước xoáy giựt phăng tiếng nguyền rủa
Còn nhớ không?
Lũ tôm chực sẵn bên bờ sông
Lũ tôm-ăn-thịt-người
Lũ người-ăn-thịt-tôm-ăn-thịt-người
Lũ người-ăn-thịt-người-ăn-thịt-tôm-ăn-thịt-người
còn nhớ không Gia?
bà mẹ trơ trọi trên đời
đứng xõa tóc bơ vơ trên nhịp cầu ván
ngẩn ngơ vói theo đoàn ghe xuôi qua:
“Nè chết hết rồi nghe! chết hết rồi nghen bây!”
đôi mắt trắng dờ của trí khôn đánh mất
còn nhớ không Gia?

Còn nhớ không
những muỗng nước cá kho ăn xin về chan lên chén cơm khô
Này ăn đi con! ăn đi con!
Nhớ không?
này thôi nín nín mẹ ru:
“ầu ơ…gió mùa thu mẹ ru con ngủ…ờ…ờ…ờ…
“năm canh dài…ờ…ờ…
“mẹ thức đủ năm canh…ầu ơ…”
Nhớ gì không Gia
Lời ru bi thương đó
cũng từng bầy năm người mười người
cặp giữa hai thanh tre trôi về chật lòng sông

Còn nhớ gì không Gia?
Những kẻ tật nguyền không được quyền tật nguyền
bằng điện giựt bằng cẳng treo
bằng roi cá đuối bằng muối ớt trên thương tích xót xa
Người câm bắt buộc phải trả lời
những tội phạm họ không bao giờ đủ khả năng nghĩ tới
Người điếc bị đánh đơ xương sống
vì không nghe được người ta hỏi gì
người điên bị bắn bể bọng đái vì không biết phải đứng lại
theo tiếng hô “Halte-là!”
và hấp hối nằm đó rên la từ tám giờ đêm cho đến mặt trời
mọc
cơn điên không hề thuyên giảm

Còn nhớ không Gia?
Người cha được đặt làm loại bàn dốc có lỗ
trên đó người ta luồn dây cột chặt con mình để đổ nước
vào mũi vào họng
Nhớ không những khám nhỏ khám lớn
Những người mỗi tuần được lùa đi tắm trong ao
bùn nước sâu đến bụng
bầy người trần truồng hôi hám nhớp nhúa, ồn ào như đàn
vịt hãng
những đứa nhỏ chạy đến (người lớn họ hết tin nhau) nhét
vội những khúc bánh mì những cặp lạp xưởng những
miếng chuối khô
bỏ lại chiếc khăn choàng tắm chưa kịp đưa
bàn tay chưa kịp nắm
đôi mắt chưa kịp ngó
giọt nước mắt chưa kịp rơi
bầy người gầy guộc xếp hàng trở về nhà giam cũ

Nhớ không Gia?
Họ trở về đó đêm đêm bó gối hồi hộp chờ chiếc xe bít bùng
đậu lại trước nhà giam
rồi từng loạt năm người mười người được gọi tên
để đền mạng cho những tên sĩ quan da trắng bị giết
Những tiếng súng vang dội lại từ một cây cầu sập bỏ hoang
làm biết bao người
cha mẹ vợ con anh em nghe trong đêm khuya
rụng rời

Còn nhớ không Gia? Những thằng bạn nhỏ đã chết trong lúc chạy giặc
Những thằng đã rơi rụng cùng máy bay
Những thằng đã bể nát với trái mìn
Những thằng đã đánh mất đời mình trên bàn chông
Gia ơi mầy nằm đó còn nhớ gì không?
Mày nhớ gì không trong lớp áo hành quân bị đục lủng
Mầy nhớ gì không?
trong đêm không bao giờ còn có ngày đó
Mày còn nhớ gì nhớ gì
dưới hàng bạch lạp hắt hiu cắm đều khoảng từ đầu đến
chân mày
Gia ơi mày làm sao nhớ gì với đạn đồng ngủ quên trong
ruột gan tim ngực

Nhớ gì không nhớ gì không
hở Gia?
nhớ gì không
những người đàn ông không có thì giờ để làm tình
những người đàn bà không có thì giờ để cưu mang
những bào thai không có thì giờ để chào đời
những trẻ thơ không có thì giờ để nô giỡn
những cơ thể non không có thì giờ để già nua
ngững kẻ bạc đầu không có thì giờ để chu toàn cái chết

còn nhớ gì hở không Gia?
con mắt chó trung thành rơi trên nền đất cứng
bà già cụt đầu lõa lồ bên bờ mương
đứa nhỏ chết cứng trên đỉnh vú xanh
những phát chày vồ những cơn lửa táp
người đàn bà rái cá bà mẹ xõa tóc điên
những kẻ tật nguyền bị tra tấn
những kẻ âm thầm gục dưới gầm cầu
những kẻ bị thủ tiêu trong rừng vắng

Nhớ lấy Gia!
nhớ lấy hết những bi thương đó
để mai kia
vào những đêm mùa hè thật vắng vẻ
mày kể lại cho giun dế nghe
chuyện con thuyền đứt neo
dật dờ trên dòng sông hai mươi tuổi
Gia ơi!
mày hãy tâm sự tuổi hai mươi của mày
với cỏ cây câm nín
giữa khuya bưng tối
đìu hiu
của đêm hè

Sàigòn 1965

Monday, June 16, 2008

Ông Điên Kiệt Tấn

Trước khi quen Kiệt Tấn, có một cô nhà báo ở Paris nói với tôi: Ông KT lúc này điên nặng, ông ngồi ở công viên ăn một cây kem, cây kem chảy ràn rụa trên tay ông mà ông không hề biết. Tôi tin răm rắp vì ai nói còn nghi ngờ, không tin, chứ nhà báo nói thì phải tin. Lý do rất đơn giản là nhà báo gần gũi thân thiết với nhà văn mới biết rõ như thế. Lúc đó tôi chưa đọc « Em Điên Xoã Tóc ».
Điên là những kẻ mất tri giác, không còn khả năng lý luận. Động tác, cử chỉ của một người điên là những tác động không thể có nơi một người bình thường. Thế mới gọi là « điên ». Và một người điên, sau khi đã bình phục, họ có thể nhớ lại được không những gì đã trải qua, những gì họ đã làm trong cơn điên ấy? Đây là những suy nghĩ rất tầm thường. Dĩ nhiên! Tôi không cố công tìm hiểu, phân tích sâu xa hơn về chứng bệnh tâm thần này vì nó chẳng liên hệ gì đến cá nhân tôi. Nhưng câu hỏi - sau cơn điên, người điên có nhớ gì không? - nó cứ đeo theo tôi kể từ khi tôi đọc « Em Điên Xoã Tóc » của Kiệt Tấn.
Ông Kiệt Tấn điên, rồ, hay chỉ khủng hoảng tâm lý? Ông điên Kiệt Tấn không thể viết văn nhưng ông nhà văn Kiệt Tấn thì có thể dựng bao nhiêu truyện tình, lồng vào những cơn điên loạn tuyệt vời. Đương nhiên là tôi biết thừa điều đó nhưng câu hỏi vẫn nhất định không bứt ra khỏi đầu tôi.
Tôi tin Kiệt Tấn. Tôi ít tin nhà văn nào như tôi đã tin Kiệt Tấn. Ở những nhà văn khác, tôi thấy tài hoa. Ở Kiệt Tấn tôi vừa thấy tài hoa vừa thấy sự thành thật (1)

Ông Nguyễn Hưng Quốc đã giải mã hộ tôi điều này. Em Điên Xoã Tóc là một tự truyện. Nhưng tôi và ông Nguyễn Hưng Quốc ai tin KT nhiều hơn? Vì tôi không chỉ tin đó là truyện đời ông. Tôi còn thắc mắc, nghi hoặc nhiều chuyện khác nữa. Evelyne, có phải là tên thật của người con gái tóc dài ở bệnh viện Paul Brousse. Thật, như Ánh, Hoa, Tuyết, Diane, Danyèle… những người đàn bà đã hiện diện trong đời sống tình ái của ông có lai lịch gốc gác rõ ràng. Hay Evelyne chỉ là tên ông đặt cho một hình bóng cất dấu chìm sâu nhiều năm dưới lòng ao tù tiềm thức, bỗng một ngày bờ vỡ đê tràn, sông nước ào ào vươn mình tuôn ra biển nhớ. Sao ông lại có một trí nhớ mồn một như thế nhỉ?
Chị Ánh vợ ông nói: Ổng đã điên rồi mà còn tìm cách đi cứu một người điên khác. Chuyến này thì tôi lại càng tin ác. Còn ai biết rõ ông hơn ngoài vợ ông. Ông có điên thật không? Nhưng chắc tấm lòng nhân hậu của ông bao la mạnh mẽ lắm, nó biểu hiện ngay cả lúc ông bị khủng hoảng tinh thần. Tôi lại tin thêm điều đó.
Có một lần bàn về chuyện văn chương của ông qua điện thoại. Tôi đề cập ngay đến truyện Em Điên Xoã Tóc. Tôi hỏi: Em Điên Xoã Tóc là một hồi tưởng của anh, anh vận dụng trí nhớ để viết lại hay dựa vào những giòng nhật ký? Mà anh có viết nhật ký thật không hay chỉ là những tiểu tiết để anh dựng truyện? Hỏi rồi tôi thấy mình hụt hẫng, vớ vẩn. Tôi đâm ra lo sợ vì cả vài phút không nghe ông đối đáp gì cả. Sau đó, tôi biết mình vừa chạm vào một nỗi đau nào đó nơi những vết thương tâm tưởng của ông. Ông im lặng, không trả lời câu hỏi của tôi vì ông xúc động. Tôi cảm được sự nghẹn ngào qua ống nghe điện thoại. Một con người coi nhẹ mọi chuyện, lúc nào cũng dí dỏm cười cợt như ông mà nghẹn đến không nói nên lời.
Dạo sau đến nhà ông chơi, ông tự ý mở tủ sách lấy ra cho tôi xem một tập vở, những trang giấy úa vàng chi chít từng giòng chữ của ông. Tôi không đọc, chỉ nhìn thoáng những nét lượn lờ như vân, như vẽ.
- Em điên đây!
Ông nói và cho tôi xem thêm một cuốn sổ khác, nhỏ hơn, cũng cũ vàng như tập nhật ký, bìa giấy cong, gẫy, loại sổ dùng ghi địa chỉ, có tên Evelyne và những con số điện thoại.
- Sau năm năm rời khỏi bệnh viện, tình cờ tôi tìm thấy cuốn sổ này, nhìn thấy cái tên này. Tôi có gọi điện thoại nhưng không ai trả lời và bỗng dưng tôi nhớ rõ lại hết mọi chuyện, nhớ cả gã đàn ông sún răng và anh chàng râu quai nón. Vậy đó, ML còn thắc mắc gì nữa không ?
Tối đó tôi về nhà, đọc lại truyện Em Điên Xoã Tóc, nhớ tới khuôn mặt ông lúc cho tôi xem cuốn sổ địa chỉ. Nhớ tới cơn nghẹn ngào của ông thuở nọ. Tưởng như nghe ông than thở: Evelyne! Giờ này anh đang ngồi trên băng đá, nước mắt lưng tròng. Còn em ở đâu? Em đã bớt điên hay có còn sống sót.(2)
Tôi đọc Người Em Xóm Học, Nụ Cười Tre Trúc, Đêm Cỏ Tuyết và nhiều truyện khác của ông. Đọc thấy hay, cảm động, và cười. Cười mãi, cười khỏi nói, cười hết biết! Đó là câu trả lời vắn tắt của tôi khi ông hỏi đọc truyện của ông tôi thấy thế nào?
Nhớ lần đầu tiên đến nhà ông. Gặp ông tôi hơi bỡ ngỡ. Vì trước đó không lâu ông có gửi tặng tôi Tuyển Tập Kiệt Tấn vừa in, có chân dung ông sau tập sách. Một thanh niên trẻ trung, khoẻ mạnh với làn da rám nắng. Ông có giọng nói khàn khàn, có lúc nghe như giọng một thằng con trai vừa vỡ tiếng. Tôi nghĩ ông cũng còn trẻ nên khi nhìn thấy ông mập mạp, hồng hào, tóc muối tiêu, đã ra dáng cụ với cặp kiếng lão trên gương mặt. Tôi không ngần ngại hỏi :
- Anh Kiệt Tấn đây hả? Sao ăn gian quá vậy? Cái hình ở bìa sách trẻ măng hà.
Ông cải chính giọng đặc sệt Nam Bộ:
- Hình đó là hình thời tui viết “Vườn Chanh Miệt Biển” chớ tui đâu có ăn gian. Ăn gian hồi nào? Tui là tui. Tui có lấy hình Alain Delon bỏ vào đâu mà ML nói tui ăn gian.
Lâu lâu bặt tin tôi, ông điện thoại hỏi tôi làm gì mà không nghe tiếng. Tôi trả lời, lúc này tôi bận lắm. Ông nói, sao bận hoài, phải cởi ra bớt đi chớ, bận hoài chịu gì nổi.
Kiệt Tấn là như vậy. Ngoài đời cũng như trong truyện, hầu như chuyện gì ông cũng có thể đem ra diễu được.

Tôi đắc ý Nụ Cười Tre Trúc nên hễ ai nhắc tới văn chương Kiệt Tấn là tôi bàn ngay đến truyện này. Làm như Kiệt Tấn chỉ viết duy nhất Nụ Cười Tre Trúc. Cho tới khi đọc những bài phê bình về tình dục trong văn chương Kiệt Tấn. Dĩ nhiên là những lời khen ngợi. Tôi lại tra vấn mình. Người ta khen nhiều quá. Ông viết bạo, hay, không nhớp nhúa. Hầu như ở hải ngoại chưa ai xông xáo vào lãnh vực này mà thành công như ông. Ô hay! Những câu văn được dẫn chứng để khen thưởng ông tôi đã đọc rốt ráo, sao tôi không cảm thấy gì hết vậy? Ông yêu thương đàn bà. Chắc chắn rồi. Ông nâng niu, tôn trọng đàn bà. Chắc chắn rồi. Nhưng những người đàn bà trong cuộc, trong vòng tay ông, cô Diane, cô Tuyết, chẳng hiểu tâm trạng họ thế nào? Thật sự tôi thấy tội nghiệp họ quá. Họ như một chú chim non, bị rơi khỏi tổ mà cậu bé Kiệt Tấn nhặt được một trưa hè. Cậu nưng niu, nựng nịu… Và vì thương quá, yêu quá nên chim non gần như trở thành nạn nhân của cậu bé. Tôi không dám nói với ông về sự suy nghĩ này. Tôi chỉ nói mi mí với ông rằng ai khen văn chương tình dục của ông chứ tôi thì không chê mà cũng không khen đâu. Khi nghe tôi nói ông lại giải mã vì tôi là độc giả đàn bà, đa số độc giả đàn bà không mặn lắm với loại văn chương nhục cảm do đàn ông viết.
Ông sống thật, viết thật. Điều này ai cũng biết. Thật quá nên chân dung của ông trong lòng độc giả, nhất là những độc giả nữ, ông là một con yêu râu xanh. Chữ “yêu râu xanh” này cũng do chính ông hay dùng những khi trò chuyện. Hồi chưa gặp ông, tôi cũng nghĩ ông này ghê lắm. Thuộc loại dê cụ, tổ sư sàm sỡ đây. Quen thân với ông rồi thấy ông vui, hào sảng, một công tử Bạc Liêu thứ thiệt. Bạn bè đến nhà ông. Khen cái cây này đẹp quá, tươi tốt quá! Ông lấy để sẵn cửa cho bạn cầm về. Bạn khen tấm gương soi gắn trên tường này nhìn đẹp quá. Ông hỏi: Vác nổi về nhà không? Thích gì ông cho nấy. Thuyết phục để nhận, để cho. Không lấy ông giận. Nhưng nhằm nhò gì những đồ vật làm cảnh cho vui ấy. Ngày đông tháng giá, ông vác cả áo khoác Cachemire của vợ đem tặng những kẻ không nhà đang run rẩy ngoài đường phố. Lý do, quần áo để hoài không mặc, đem cho bớt. Vợ khóc, áo em mua để dành mặc đi tiệc tùng. Ông tỉnh queo, hứa sẽ mua cho vợ cái áo khác, lòng vẫn mãn nguyện rằng ít nhất mình đã cứu được một người.

Tôi biết một điều, ông vui vẻ, trung thực, bộc trực nhưng dễ nổi cộc. Đối với ông trắng là trắng mà đen là đen. Có sao nói vậy người ơi, đừng điệu bộ “em chả, em chả...” là không xong với ông. Điệu đàng thục nữ, nghiêm chỉnh, quy tắc... tôi nghĩ chắc không thể trò chuyện lâu được với Kiệt Tấn. Quan niệm của ông thấy gì trái khoáy thì nói. Im lặng tức là đồng loã. Điều này chắc ông đã làm mất lòng khá nhiều người.

Bây giờ thỉnh thoảng trò chuyện, tôi gọi ông là ông điên. Nhưng có lúc tôi nói:
- Anh mà điên khỉ gì.
Ông cười,
- Ừ, khôn bỏ mẹ. Sức mấy mà điên.
Điên hay không Điên?
Nơi ông ở, ngoại ô Paris. Nhà chung cư nằm trên tầng thứ mười lăm, cùng một phố với Cao Hành Kiện mà ông vẫn trách đùa là Hàn Lâm Thụy Điển đã gửi lầm địa chỉ khi trao giải Nobel cho ông nhà văn Trung Hoa này. Nếu cái thư bay nghiêng đi một chút thì đã tới tay Kiệt Tấn.
Mỗi ngày, ông ngồi đó, rượu đầy ly, nhạc đầy không gian nhỏ. Không gian xanh mướt cỏ cây, hoa lá. Ông có nhiều đĩa nhạc hay. Tôi có nói với ông, tôi luôn động lòng tham mỗi lần nhìn thấy tủ nhạc của ông, chỉ muốn nhặt vài đĩa bỏ túi. Lúc nghe nhạc, hứng chí, ông đứng lên tự khiêu vũ, nghiêng nghiêng, ngả ngả với đôi mắt lim dim.
Ông ngồi đó, giữa đám thú nhỏ hiền lành, ngây ngô. Con cóc xanh biếc chễm chệ giữa những hòn sỏi ở một chậu hoa. Chú vịt vàng nhung đôi mắt đen nhánh hạt huyền ngoan ngoãn trên kệ sách. Con trâu nấp dưới bóng cây. Ông ngồi đó, quanh những phiến đá nho nhỏ. Những phiến đá đẹp, phẳng, ông nhặt ở những bãi bờ nào đó, nom như những ngọn núi nhỏ phương đông vì những hàng chữ Tàu ông nắn nót viết lên. Thấy đẹp thì ông viết lại, hoạ lại. Thực sự chính ông cũng chẳng hiểu nghĩa là gì. Nói theo kiểu Hà Nội thì Kiệt Tấn “Vô tư thôi”!
Ông ngồi đó, giữa những bức tranh. Tranh của bạn ông vẽ tặng, tranh ông mua. Thích gì mua nấy, thích gì treo nấy. Tranh cổ, tranh hiện đại hoà bình bên nhau. Vườn tược thôn dã hay thâm cốc hoang vu? Điên đấy! Với những bày biện như thế có người thẳng thừng cho là ông điên, ông bị chạm dây thần kinh.
Điên hay không Điên?
Ông ngồi đó, ông là ông điên, ông tiên, gã sinh viên tài hoa đa tình của Paris một thuở hay là cậu bé Kiệt non nớt của mấy mươi năm trước? Đâu dễ gì giữ được sự hồn nhiên thơ trẻ ở vào lứa tuổi đã được xếp hàng ông nội, ông ngoại như ông. Em vịt vàng nhỏ. Cóc nhái ao lạch quê xưa... Hẳn là kỷ niệm, quá khứ, là tình cảm tha thiết cất dấu trong tim ông.
Gọi ông là ông điên nhưng tôi thấy ông vui, vui lắm, có vẻ ông đang thoả hiệp với cuộc đời. Thời điên qua rồi. Nhắc đến ông bây giờ là phải nói đến rượu, say, cười. Say khướt, say cuồng, say bí tỉ. Ông say như thế nào tôi cũng chưa từng được chứng kiến. Nhưng mỗi lần nhìn ông ngồi với ly rượu, dù ông cười nói huyên thuyên, tôi vẫn nghĩ đến một “nỗi buồn”... cất dấu đâu đó, sau những nụ cười.
Hình ảnh một người say không còn biết đất trời, say đến té gục xuống lề đường. Vậy mà vẫn lảm nhảm, van vỉ được quên, được hủy diệt trí nhớ.
…Je veux détruire ma mémoire…
Je veux détruire ma mémoire... (3)
Nghe xót xa quá, thương tâm quá! Đâu phải là lời nhảm nhí của một người điên hay một gã say.
Tôi vẫn tự hỏi – Suốt năm năm, sau khi rời khỏi bệnh viện, bao nhiêu điều ông đã quên rồi lại nhớ? Còn có những gì ông không muốn nhớ và đã được quên?

Đặng Mai Lan

(tháng 5, 2006)


(1) “Kiệt Tấn, Nụ Cười Tre Trúc” -
Nguyễn Hưng Quốc, Tuyển Tập Kiệt Tấn (trang 480) - Văn Mới xuất bản 2002.
(2) “Em Điên Xoã Tóc” - Tuyển Tập Kiệt Tấn ( trang 331) - Văn Mới xuất bản 2002.
(3) “Tôi muốn hủy diệt trí nhớ”

Hè về đọc thơ Kiệt Tấn

"...một lòng yêu người nồng nhiệt, và một sự can đảm lớn lao[1]..."
"...là một tình nhân trước khi là một người cầm bút [2]"
"...như ở trần mà như chơi vơi trong sương khói [3](!)…"
" thứ tình yêu... (...) pha trộn giữa yêu thương, đam mê, ham muốn và che chở "
"...;viết về những người đàn bà với một tấm lòng, một đam mê, và đằng sau đó là chiêm ngưỡng, là trân quý[4]"
"...ngùn ngụt dục tình[5]"...v....v..
Ðó là một phần những nhận xét của các nhà phê bình danh tiếng khi nói về một Kiệt Tấn văn xuôi, có người còn gọi anh là "hiện tượng văn học" . Vì Kiệt Tấn đã dám sống hết mình "dám viết tường tận và đẩy ngòi bút (...) vào những vùng cấm kị"[6] .
Bởi vì trong một số không nhỏ các truyện ngắn, anh nói về những cuộc (& làm) tình thời trai trẻ với cách diễn tả linh động, tỉ mỉ, giọng văn say đắm, nhắc nhở, kể lại những cảm giác những rung cảm tâm hồn và thể xác từ ...mưỡu đầu cho đến thực, rồi kết, thông qua tột đỉnh khoái lạc. Vẫn từng ấy say mê, ngần ấy động tác nhưng các... tứ tuyệt cũng như bát cổ của Kiệt Tấn với mỗi người tình đều tuyệt vời mới mẻ, khiến người đọc theo dõi đến cùng.
Các nhà phê bình cũng nhắc đến các khía cạnh tài ba khác trong văn xuôi Kiệt Tấn : giọng văn dí dỏm, cái "điên" Kiệt Tấn, tấm lòng yêu quê hương Kiệt Tấn, yêu mẹ, yêu phụ nữ ... Ða số độc giả, phê bình gia biết rằng Kiệt Tấn làm thơ trước khi viết văn, và tuy "văn ông đầy chất thơ"[7], nhưng hình như ít ai "xem" thơ Kiệt Tấn[8].
Kiệt Tấn cho biết "thèm" làm thơ như thèm viết văn xuôi, như thèm "yêu" và khai rằng Nguyễn Bính, Eluard, Prévert "là sư phụ". Cho nên, tôi đi tìm đọc thơ xem coi Kiệt Tấn cũng "có hết mình" với thơ không, đến mức nào. Và những bài thơ này cho chúng ta biết thêm gì về người văn xuôi ấy.

Hai tập thơ Kiệt Tấn: Ðiệp khúc tình yêu và trái phá[9] và Việt Nam Thương Khúc, ra đời cách nhau hơn ba mươi năm ở hai nơi khác nhau: 1966 tại Sài Gòn và 1999 tại Paris. (Và khoảng giữa là nhiều tập truyện ngắn, dài xuất bản ở Mỹ).

Tập thơ thứ nhất, Ðiệp khúc tình yêu và trái phá, gồm hai điệp khúc (andante cantabile và allegro con fuoco!) với hơn bốn mươi lăm bài thơ làm từ những năm 1961, 62 với phong cách hiện đại siêu thực thời bấy giờ: hầu hết đều không vần.

một bận hư vô có chửa hoang
sinh đôi một con thú hai chân và một con thú vô hình

Có bài thơ tự sự, có câu thơ văn xuôi, có câu vắt dòng, rất Tây phương và... tân hình thức bây giờ. Ðêm tối và mùa mưa là hai bối cảnh thường gặp.
Một đêm vũ trường buồn hiu hay "đêm đêm nằm tủi hổ một mình anh", một ngày nắng quạnh quẽ nơi bãi bể, một "hoàng hôn chở bóng tối về chật hồn anh" hay "nỗi buồn dài hơn sải tay":

(...)
một hoàng hôn đảo lẻ
một cửa sổ mở toang
một đám mây cúi đầu

Nhắc nhở gọi kêu thống thiết (những) người tình : Diane, L(ouise ?)

Diane và Diane bis!:
Diane
Diane diane diane
Tên em viết bằng năm chữ cái trên năm đầu ngón tay anh
(...)
Diane oi diane ơi !
Chúng mình xuyên qua đời nhau bằng mắt
Nhìn có ngấn lệ đoanh tròng...
(...)
anh gọi thầm L. ơi ! L. ơi ! anh thua buồn bỏ đi
(...)
ái ân bằng bàn tay trong ngực
nhóm lửa bằng anh trong em
...

Những bài thơ chứa nhiều bực bội, hoang mang, thụ động. Như lời buồn thánh của một thi nhân ướt mi khác lúc bấy giờ, Trịnh Công Sơn, trước khi lẫy lừng khắp nơi đôi năm sau với tiếng hát về số phận Việt Nam, một "người (thường) ngồi đó, như tượng đá "nghe mưa và nghe ngóng tâm trạng thê thiết của mình[10].”
Sài Gòn đem mưa và cô đơn cho Kiệt Tấn làm thơ :

(...)
vì tối nay trời mưa trời mưa rất lớn mưa
ướt cả phố phường mưa ướt cả bãi cỏ mưa
ướt cả sân mưa dột xuống nỗi lẻ loi của anh
(...)
anh gia nhập một đoàn hát vĩ đại
anh đóng vai trong một tấn tuồng vĩ đại mà
đoạn kết chưa viết xong.

Những bài thơ không vần, khô khan, rất ít vui tươi, màu sắc và động từ. Là những nghi vấn, bứt rứt, tâm sự giận dữ, một tâm hồn quẩn quanh cam chịu, nhưng ngôn từ siêu thực rất thời thượng, đó là những năm bắt đầu của (viết là đâm nổ mặt trời !) triết hiện sinh và thiền Sài Gòn (rất hậu Tây phương mà ngay bây giờ 2006, người ta đọc được đó đây ít nhiều bài thơ trẻ có cùng âm hưởng ấy, ở Việt Nam).

(...)
cầm vô vọng anh ném về vô vọng
(...)
anh thua buồn trên sợi chỉ thời gian
trên dây hiện tại anh là phường hát xiếc
(...)
phải rồi hãy nói đi em hãy nói những gì em
vừa nghĩ đến trong một thoáng hiện tại dù
sau đấy hiện tại biến đi nhanh hơn ánh sáng
(...)
....anh đánh cắp mặt trời trốn lên những vùng băng giá
mặt trời ru anh ngủ những mùa đông dài mississipi
mặt trời trụy thai mặt trời chết

Quả thật, những vần thơ không có gì phải ngại ngùng khi đứng bên cạnh các cô Ly Hoàng Ly hay Phan Huyền Thư vân vân...bây giờ!

...
Phía trước mặt là đêm
Không muốn đêm cũng thấy đêm
Không muốn đêm cũng có đêm
...

Tập thơ ra mắt năm 1966, khoảng ba năm sau khi tổng thống đệ nhất cộng hoà Ngô Ðình Diệm và em Ngô Ðình Nhu bị đảo chánh. Lòng xốn xang khi thấy bức ảnh trên báo (nhớ rằng mình đã hơn một lần hát chào cờ theo bạn rất láo lếu tô hủ tíu, tô hủ tíu muôn năm... và toàn dân VN nhớ ơn tô hủ tíu!) : hai người tay bị trói ra sau lưng, nằm chết cong queo trong một chiếc xe tăng. Người nhận và thi hành lệnh lịnh bắn là đại úy Nhung, về sau ông này cũng bị bắn chết. Những bài báo giật gân thật giả về cuộc đời bà Nhu trên báo, kéo dài khá lâu. Rồi lại đảo chánh, chỉnh lí, Hội đồng Quân nhân Cách mạng. Plastic nổ giữa thành phố. Mô, hầm chông. Pháo kích, oanh kích. Bom B52. Napalm. Tổng công kích. Tổng động viên.
Ðó là những hình ảnh mơ hồ còn lại của khoảng thời gian thanh bình từ 1954 đến 1964-1965 trong trí nhớ trẻ thơ tôi dạo ấy. Khi nghe ông bà ngoại, cha mẹ kể chuyện "chạy giặc" (Pháp) quả tình là nghe chuyện cổ tích! Khoảng thời gian chuyển tiếp từ thanh bình qua chiến tranh (với Mĩ và miền Bắc) quá ngắn ngủi đối với tôi, cho nên lập tức từ sau năm 1967 là hãi hùng sấm chớp bàng hoàng đột ngột.
Thời đi học, bọn chúng tôi trai/gái học riêng (đệ tử trường mè dzỏng lô, nam nữ thọ thọ bất thân !), mỗi thứ hai trang nghiêm xếp hàng với cả trường chào quốc kì cờ vàng ba sọc đỏ, hát thiệt này công dân ơi đứng lên đáp lời... rồi ai bao năm vì đất nước quên thân mình... [11] ... là những ngày đẹp đẽ tuổi học trò tiểu học, vài năm đầu trung học, với những ngày hè nhẹ nhàng, vườn tược, vùng thơ ấu êm ấm và bạn bè với vô tư (thứ thiệt - chưa có thầy cô nào giải nghĩa hay tuyên truyền về "Ngô chí sĩ anh minh"!), thương ơi là thương, sung sướng ơi là sung sướng. Cả đám, cho đến năm đệ ngũ đệ tứ chỉ biết đi học và đi chơi! Rồi đến một hôm ...chấm dứt chương trình của ...: không còn thong thả đi học chẳng còn được long nhong tự do năm sáu đứa đi xi nê, leo xe đò đi chơi xa một chút. Ði học bây giờ bữa có bữa không, đi học nhờ trường khác, hết dám đi chơi loanh quanh đường phố Sài Gòn, hết dám lên Thủ Ðức hết dám về Lái Thiêu, hết dám qua Long Hải... Ðường đi nhiều chướng ngại và những trái tim bỗng ngơ ngác chết lặng.
Ðây là thời kì Phạm Duy với Kỉ vật cho em, và những bài tâm ca. Phong trào Du ca bắt đầu, với Nguyễn Ðức Quang, Nguyễn Hữu Nghĩa, Phạm Quốc Bảo...
Kiệt Tấn cũng nổi giận với chiến tranh. Và bên cạnh (ngôn ngữ đầy ắp) chiến tranh là tư tưởng rất thiền rất ngộ đạo (Phật) :

và điệu twist bắt đầu trỗi dậy với ban thủy
quân lục chiến đệm nhạc khi tiểu liên trung liên đại liên các bin
(...)
Bàn tiệc của chúng ta
việt cộng xào mã tấu
plastic nhân thịt hoa kỳ
(...)
đêm rất đen
từng khẩu đại liên từng ổ trọng pháo
nã đạn như điên

chúng ta được gì
với thành phố này và quả lựu đạn nổ tung trong nhà hát đó
chúng ta được gì
(...)
chúng ta được gì
với thành phố này và con vật gì sì sụp trên lề đường đó
....với thành phố này và những gương mặt bự mỡ trong phòng lạnh đó
chúng ta được gì
với nền độc tài này và cuộc cách mạng đó
chúng ta được gì
với xác chết vận quần đùi đen này và thây ma mặc treillis đó
chúng ta được gì
với thành phố này
chúng ta được gì
với thành phố này
chúng ta được gì

với tiếng thở than nặn thành tai cho anh làm quen với tiếng gào xé ruột
với hai viên đạn đồng lấp vào lỗ mắt để anh chỉ nhìn thấy tử huyệt của con người
...
hãy lấy giây xích chiến xa này vận chuyển bộ máy nghĩ suy trong đầu óc anh rỉ sét
với quả lựu đạn này làm tim cho anh được
nổ tung nát bét khi nào anh đánh rớt quả tim anh
...
cho anh và em khỏi tạo thêm những đứa
con mệt mỏi trong cuộc chiến tranh nhàm chán hôm nay
(...)
khi cây cổ thụ chợt nhớ mình rong biển
khi con chim hải âu chợt hỏi bến bờ sắp tới
khi cơn sóng chợt hỏi trùng dương xao động làm chi
khi uống nước là cá
khi ăn quả là chim
khi nằm xuống là cây
khi vào cây là côn trùng
(...)
từ nguyên tử phân thân
chúng ta đều là nạn nhân
từ anh là anh
từ tôi là tôi
chúng ta đều là nạn nhân

Và những bài thơ kế tiếp, vô cùng văn xuôi và tự sự, rất Kiệt Tấn :

..."anh thèm chép cho em thơ nguyễn bính hay thơ thanh tâm tuyền để em đọc cho đỡ nhớ vào những giờ thành phố giới nghiêm và cũng có thể để mai kia mốt nọ em dỗ em quên đi động vật trong vòng tay em ôm ấp một ngày một tháng một năm hay khi mùa mưa ...",
với thành phố này và tổ chim mắc trên dây điện cao thế đó
(...)

Về hai thi nhân được Kiệt Tấn nhắc đến, khi đó, một người qua đời đã hơn 5 năm và người thứ hai sẽ bị tù đầy hàng chục năm khi Việt Nam thống nhất.
Nguyễn Bính làm thơ tại Hà Nội :

...Quê tôi đó, bạn ơi, là thế đó
Mà nghìn năm rặt những tiếng kêu thương
Sung sướng làm sao, bỗng một ngày có đảng
Có bác Hồ làm sống lại quê hương!

Và Thanh Tâm Tuyền đôi năm sau, viết ở Sài Gòn :

...Hơn lúc nào, ta mong ta rớt xuống, rớt thẳng cẳng, rớt sung sướng mãn nguyện. Ta ngán trò đu quá trời. Bạn ta hiểu chứ? Ðêm nay ta muốn viết cho bạn về những sự tầm thường. Sự đến chán ngoét của mỗi ngày bâu bám như bụi trên đồ vật không khi nào lau chùi hết...(...) Bạn cứ tiếp tục thiền. Cơn say của ta đang tan. Ta có thể viết cho bạn bình tĩnh hơn một câu đại loại như sau: Ðã có một thời của hiện sinh do mấy anh du học Pháp, Bỉ về khua chiêng gióng trống thì nay đến một thời của Thiền do mấy anh du học Mỹ, Nhật về gióng trống khua chiêng. Nhưng cũng chẳng sao...(...) Ta bóc dần ta từng lớp vỏ (...) Ta bóc đến cùng kiệt, kiệt cùng. (...) Ðến đây ta tự nhận ta không còn làm trò hề (...) Biết đâu là kiệt cùng?

Thơ văn thành thị miền Nam lúc bấy giờ nói chung đã xa không khí âm hưởng thời tiền chiến (chiến với Pháp), tuy Mê Hồn Ca[12] là thi phẩm đầu tiên do nhà Khai Trí Sài Gòn in lại năm 1970, tuy Ðường Vào Tình Sử đã ra đời năm 1961 với nét vẽ của chính Ðinh Hùng, rất hiện đại ấn tượng và dã thú, siêu thực Pháp, nghĩa là một phong trào đã qua và bị bỏ quên, dù không ít người trước đó vô cùng rung động với những câu thơ hoang mang, kì hoặc[13] :

(...)
Mơ Hoàng thành dựng lại bản thanh âm
Mười ngón tay nhung
Mở cửa đế cầm
Ôi kiến trúc một chiêm bao thần bí!
(...)

Trên đường ta đi
Những đoá hoa nở mặt trời xích đạo
Những làn hương mang giông tố bình sa
(...)
Ôi ngơ ngác một lũ người vong bản
Mất tinh thần từ những thuở xa xôi
Ta về đây lạ hết các ngươi rồi
Lạ tình cảm, lạ đời chung, cách sống
Ðinh Hùng

Bốn câu cuối này vẫn làm tôi bâng khuâng, thấy chúng ít mơ hồ kì quặc hơn những bài thơ khác của Ðinh Hùng. Lí do khiến kẻ phàm phu bỏ trần tục theo khói thuốc phiện về cảnh tiên? hay tiếng thi nhân thảng thốt lúc bạn đồng hành lộ mặt stalinien?

Chúng ta đi vào lá hoa, tình sử
Hơi thở em hoà sương khói Ðường thi,
Anh đọc cho em những dòng cổ tự
Ai cập và Cổ La Hi
Anh viết cho em bài thơ nho nhỏ
(...)

Thôi rồi, Sài Gòn đã qua mùa lãng mạn. Năm sau, Ðinh Hùng mất. Mang theo những tinh vân, khúc nhạc hồn Do Thái, nhân ngư, nhiệt đới, lác đác trong mê rụng tiếng đàn, hồn ai khóc rợn bốn dây oan. Bây giờ là tiếng thơ Kiệt Tấn lùng bùng trong lối cụt:

là mê cung trong suốt
là cơn lốc bất động
(...)
là chúng ta phủ nhận chúng ta
mọi lời nói chỉ có tác dụng làm tối nghĩa
và nỗi bất lực từ đó

đến heo chó gà vịt côn trùng cũng chết
trong trận giặc của chúng ta

Ở giữa vài bài thơ bình thường của con người bình thường đang hoang mang chìm trong tiếng chiến tranh và bài thơ trí thức với chữ nghĩa thời thượng, còn có những lời lẽ giản dị, gần gũi với Kiệt Tấn bây giờ. Và đôi câu tuy hiếm hoi đã hé mở một khôi hài Kiệt Tấn, cho dù là/nhất là trong thảm kịch:

và chiều chiều anh vác chày đá đến đập cửa động em
kêu đầy thung lũng
bớ em bớ em
hãy ra đây cùng anh tình tự

Hai bài trong số này được Kiệt Tấn chọn in lại trong Tuyển tập Kiệt Tấn do nhà Văn Mới xuất bản ở Mĩ vào năm 2004. Chắc hẳn đây là hai bài ông rất yêu hoặc ông nghĩ là tiêu biểu một thời thơ Kiệt Tấn.
Bài thứ nhất rất dài, một (bức) thư/thơ gởi bạn, giọng luyến tiếc, thiết tha, mang tựa Dòng sông và con thuyền hai mươi tuổi. Bức thư cũng là một truyện kể, nhắc nhở những mắt thấy tai nghe thời thơ ấu của đôi bạn nhỏ:

còn nhớ không Gia,
trong những đêm đen nào
lũ chó mực cất cổ tru thảm thiết bên những căn nhà trụi nóc
(...)
với chiếc cày lửa và mầm đạn đồng
gieo mạ xuống vườn tược chúng ta
(...)
những tầm vông vạt nhọn
(...)
còn nhớ không Gia?
tụi mình quá nhỏ để hiểu được cách mạng
bầu cử Việt Minh Quốc Dân đảng...
chỉ biết rằng cơm bắt đầu khô
nước mắm hẹp hòi và những khoanh thịt
bắt đầu thưa thớt trong bữa ăn
nhưng tụi mình thích thú vì không phải đi học
đó là thời kì cha anh chúng ta thì thầm
rất khuya bên ngọn đèn dầu
(...)
còn nhớ gì không Gia
những người mất đầu vì một quyển văn phạm ngoại ngữ
những người bị mổ bụng vì mặt biên áo trong có in ba mầu
(...)
còn nhớ gì không Gia?
những mảnh gỗ vụn được ghép thành ghe
...
những con tàu Noé hớt hải trên khắp các ngả sông
...
nhớ gì không Gia?
những lời nguyền thiêu trong lửa
những phản phúc mặc áo bưng biền
những Nguyễn Bình[14] những Tạ Thu Thâu[15] những Hoàng Thọ[16]
những người bị thủ tiêu trong rừng vắng
những người bị phục kích trên đường về
những người bị đánh cướp công lao
những người chết không bao giờ nhắm mắt
...
....
họ không có thì giờ để cắt cổ từng người
...
họ không có thì giờ đào những lỗ huyệt tập thể
những người bị bắt quỳ bên bờ sông
lưỡi phảng phạt xuống trúng tai trúng cổ trúng vai trúng lưng mặc kệ
phát chày vồ xáng lên đầu tức thì và chưn đạp tiễn họ xuống sông những đầu người còn trồi lên:
"Ð.m tụi bây, giết tao sao không giết cho thiệt chết?"
...
lũ tôm chực sẵn bên bờ sông
lũ tôm ăn thịt người
lũ người ăn thịt tôm-ăn-thịt-người
lũ người-ăn-thịt-người-ăn-thịt-tôm-ăn-thịt-người [17]
(...)
còn nhớ không Gia
(...)
mày nhớ gì không
(...)
mày còn nhớ gì nhớ gì
(...)
Gia ơi mày làm sao nhớ gì với viên đạn đồng ngủ quên trong tim ngực
(...)
mày kể lại cho giun dế nghe
(...)
chuyện con thuyền đứt neo
dật dờ trên dòng sông hai mươi tuổi
(...)

Ðây là lời nhắc nhở thiết tha (mà đôi lúc lạnh lùng kiểm điểm) từ/về những cái chết thời Pháp và thời kháng chiến chống Pháp (1945-1954) cũng nhiều oan khiên tức tửi, những cái chết sơ sinh, bào thai chưa ra đời, cái chết tóc xanh, đầu bạc, của con tin, gián điệp, kẻ phản bội, đệ tứ, đệ tam, kẻ nam, người nữ... Những người chết và những cách chết, kiểu chết, bị đập bằng chày vồ, bị mổ bụng, bị chặt đầu, bị giết bằng súng đạn, bằng bom, bằng mìn, chông, bằng dao cùn làm cá, bằng lưỡi phảng... trên sông, trong rừng vắng, dưới gầm cầu, nơi bờ mương... Cho đến cái chết (đột ngột) của người bạn tên Gia, trên dưới hai mươi năm sau. (Tên này sẽ là tên bạn của một nhân vật trong tập thơ sau.)
Những bi thương nhớ lại để chỉ kể cùng với cỏ cây câm nín và bưng tối đìu hiu của đêm hè
Không biết người Việt (và lớp trẻ sinh sau 1975) tưởng tượng ra sao và có (nhớ? tưởng tượng?) cảm nghĩ gì khi đọc bài này, riêng đối với tôi, những hình ảnh chiến tranh quá khứ hiện ra sấm chớp, nhắc nhở. Như thấy lại tất cả những chuỗi ngày xưa cũ, một thứ phim sống cô đọng và mộng mị hãi hùng. Như mộng mị vì biết rõ ràng rằng chuyện đã qua từ lâu lắm và nó chẳng còn có thể sờ chạm đến mình, dù những dư âm ghê sợ đớn đau vẫn còn sắc cạnh. Ai có nhớ gì không? Tôi nhớ đến một người bạn Pháp biết rõ lịch sử cận đại Việt Nam, một hôm, như nhà văn Ðài Loan Bá Dương đã phán ra một nhận xét nửa đùa, nửa nghiêm chỉnh: "dân Việt Nam chúng mày rất ác với nhau!" Biết rồi... khổ lắm... Ác với nhau vì giận dữ hận thù nhau? Tàn nhẫn vì quá (hành hạ nhau) đớn đau?
Nhà thơ Kiệt Tấn ngày ấy đã đau đớn, giận dữ ra sao? Chắc chắn Kiệt Tấn đã cảm, đã thấy được cái ác, cái tàn nhẫn đó! Không phải ác hay tàn nhẫn thì gọi là gì? Không ác sao lại tận tình giết nhau (bằng đủ cách, đủ cớ) như thế? Nhân loại, dân chúng trong cùng một đất nước ngoài Việt Nam có giết nhau tận tình và dài lâu như vậy không?

Bài thơ thứ hai tái bản năm 1994 là bài Biết bao giờ, mùa hè về, Kiệt Tấn trốn cô đơn và đau khổ, ray rức bằng những kỉ niệm thần tiên, những kỉ niệm ở bên kia địa ngục :

hãy nằm im
và đừng hỏi
tại sao
đừng hỏi tại sao
những con ruồi say nắng
rụng cánh
nằm chết
trên bàn tay ấm áp
của mùa hè

Tôi thấy lại giọng kể lể tự sự, tự nhiên nơi Dòng sông và con thuyền hai mươi tuổi trong tập thơ thứ hai, dưới góc nhìn khác, bình tĩnh hơn, toàn diện hơn, có lẽ vì Kiệt Tấn có khoảng cách xa hơn với lịch sử.
Khoảng cách cho thấy Kiệt Tấn chín mùi, đầy đủ, tự do (về tình cảm, chữ nghĩa, và về dục tình) ở các tập truyện ngắn và tròn trịa cổ điển, gần gũi với chính mình hơn ở tập thơ sau này. Thật vậy trong tập đầu, Kiệt Tấn trang nghiêm, đau khổ, phẫn uất như mọi thanh niên đau khổ vì chiến tranh lôi kéo ức hiếp vào thời ấy. Chắc chắn là họ đau khổ, dù những cách thức dấn (dâng[18]) mình vào cuộc (chiến) sống khác nhau. Ði Ðêm Màu Hồng hay Ngã Ba Chú Iá, lả lướt Tango hay cưỡi (đĩ) ngựa... đều khổ cả, chỉ cần đọc thơ Kiệt Tấn. Chỉ cần đọc lại sách, báo, văn chương thời ấy.
Chỉ cần đọc lại Nguyễn Thị Hoàng, Bóng người thiên thu, Tình yêu, địa ngục…
Xin đưa thí dụ một truyện ngắn[19] của bà mà phần mở đầu khiến độc giả (tôi) hơi bực mình vì một nhân vật nữ (yểu điệu, quý phái, cô nương công chúa Tàu v...v...đến sốt cả ruột!) đang bâng khuâng ngắm nghía kiểm điểm bàn tiệc trải khăn trắng muốt sang trọng (!?), rượu (chờ), li pha lê (đợi), đường sỏi & hoa cỏ rực rỡ (mong), người đẹp đẽ (đã sẵn sàng dâng hiến) thế mà chàng không chịu đến, nàng phải... kêu tài xế (xe hơi nhà, dĩ nhiên) chở vào trại (cấm) binh đòi (hỏi) sếp chàng thả chàng về; sếp ok chiều cô em họ, bẻ gãy lệnh cấm thế mà chàng (hào hùng, tiếp tục hát bài) không chịu! Nàng trở về mình ên, bực tức, đau khổ, giải thích vì sao nàng đi tìm chàng. Trên đường về, nườm nượp những đoàn xe đưa người ra nghĩa trang quân đội. Như chứng tỏ rằng nàng có lí khi dẹp tự ái qua một bên, đi tìm đến người yêu. Thì ra chiến tranh, chết chóc, lảng vảng, ám ảnh mọi ý nghĩ, đầu óc, chiếm ngự cả không gian, đời sống, thiên đường người đẹp quý phái này. Ðây là một truyện ngắn cảm động về chiến tranh. (Yểu điệu) thục nữ mà quân (nhân) tử chẳng hảo cầu, tự ái bị tổn thương quá sức nhưng chiến tranh và hậu quả kinh hoàng trước mắt, cho nên, dù nàng điệu đến chót đỉnh Hi Mã Lạp Sơn, cho nên dù nàng đi tìm chàng bằng trực thăng hay xe tăng chắc tôi cũng sẵn sàng cảm thông buông bỏ bực bội.
Trong một truyện ngắn khác cùng tác giả, tương tự, nhân vật nữ (lúc nào cũng) quý phái, trí thức (xuống máy bay, tay xách chai rượu, bỏ lại sau lưng "tiếng tốt" và "những chứng chỉ" (đại học - có lẽ vậy - chứ không phải chứng chỉ miễn dịch!) đi tìm người xưa, và cũng trên đường đi, gặp "những xe nhà binh" chở "những tràng hoa cườm và những quan tài đen đỏ". Chiến tranh vây quanh. Chiến tranh bao trùm, lấn lướt. Những chinh phụ chưa bao giờ được cưới cũng đáng thương như mọi người đàn bà trông chờ một người nơi mặt trận.
Chỉ cần xem Thơ say Vũ Hoàng Chương hay nghe ông chỉ nhìn mình nhân một chuyến đau ở Sài Gòn Sơ thu Tân Hợi:

Hàn phong mỗi thớ thịt vây quanh
Lửa bốc như thiêu bảy cửa thành
Mặt trái Thời gian hồn đảo ngược
Mơ hồ nghe tiếng liễu trong oanh
(...)

Mai Thảo ung dung Ðể tưởng nhớ mùi hương, Sống chỉ một lần, Hạnh phúc đến về đêm
Trùng Dương với Bầy kên kên
Ðúng rồi, mỗi người một cách, một phong cách, một phương cách để tự vệ, tự tồn trong hoàn cảnh nghiệt ngã.
Chỉ cần xem Lệ Hằng tuyệt vời với truyện ngắn Valentino
Và Nhã Ca với:

Tôi lớn lên bên này sông Hương
Con sông chẻ ra những vùng thương nhớ
Cây trái Kim Long, sắt thép cầu Bạch Hổ
Mặt nước xanh, trong suốt tuổi thơ hồng

Chỉ cần xem Duyên Anh với Áo tiểu thư, Thằng Côn, Viên Linh với Cuối trời hôn mê, Nguyễn Ðình Toàn trong Áo mơ phai hay Giờ ra chơi
Tuý Hồng trong Mối thù rực rỡ . Nguyễn Xuân Hoàng trong Khu rừng hực lửa
Ðó là (nhiều) những ngoại lệ xác định thông lệ!
Nghĩa là phải đọc Nguyễn Bắc Sơn, Y Uyên và Tô Thuỳ Yên, ở một nơi chốn khác xa với thiếu phụ não nùng khăn trắng, li pha lê, xe hơi có tài xế nói trên:

... Áo quan phong quốc kỳ anh liệt
Niềm thiên thu đầm cỗ xe tang
Quê xa không tiện đường đưa tiễn
Nghĩa tận sơ sài đám lạnh tanh
(...)

Và xem lại thời khoá biểu rất dễ thương của Ðức Phổ :

... anh chờ lại Sài Gòn
với bạn bè, thơ văn, sách báo
với những ngày lang thang
cơm bình dân, mì, bò kho, đầu đường xó chợ
rồi chui vào rạp Rex ngủ trưa
đợi chiều đi dạy giết thì giờ
...;bây giờ xem báo
anh lật trang chót trước
...
em yêu ơi!
Anh sẽ về dù gió, mưa, bão đạn
Dù hết tiền xe, dù nhảy rào, dù bị cạo trọc đầu
...
cho những cuộc hẹn hò còn tiếp nối
để dựng lại đời trong đổ vỡ chông chênh
và nguyện sẽ chẳng bao giờ xa Sài Gòn
như chẳng bao giờ anh xa em


Trong lúc đó: Hoàng Phủ Ngọc Tường chuẩn bị đi thẳng vào đường Trường Sơn (và thỉnh thoảng cho) Trịnh Công Sơn nghe "từng lời nói" của người về "từ bên kia núi" và thi sĩ Ngô Kha hoạt động nội thành bị (mật vụ, an ninh quốc gia?) giết, vất xác bên bờ ruộng!

Nhớ Hoàng Ngọc Hiển với Quê hương lưu đày. Nhớ Nhã Ca khẽ bước tới người thương
Như Nguyễn Bắc Sơn từ mặt trận về "chia sẻ mối sầu cùng gái điếm" như Ngô Thế Vinh là y sĩ trong/ngoài Vòng đai xanh.
Ðọc "tâm tình của một thanh niên hai mươi bốn tuổi" năm 1963 trước khi trở thành nhà văn Dương Kiền, luật sư biện hộ cho Nhất Linh. (Sau này, Dương Kiền nổi tiếng hơn nữa, với vở kịch Sân Khấu đoạt giải thưởng văn chương toàn quốc 1968) với tình yêu, tình bạn và phản bội ; đảng (Cộng Sản đảng, Quốc Dân đảng) và kháng chiến, trong bối cảnh Hà Nội năm 1953...
Ngậm ngùi đọc lại những cố gắng của Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu[20], khi họ nhắc đến kỉ niệm tản cư 1954, về thành, đến "anh em Ðệ Tam, Ðệ Tứ" trong những tác phẩm mới nhất lúc đó và Doãn Quốc Sỹ với Cò Ðùm như những linh cảm, cố gắng thành tâm trước cơn nguy sẽ tới. Nhưng chẳng có (mấy ai?) nhiều người nghe thấy và hiểu được những kinh nghiệm (chính trị?) của họ.
Ðể sau cùng trở lại đọc (kĩ) Kiệt Tấn với Ðiệp khúc tình yêu và trái phá ! Kiệt Tấn 26 tuổi.
Cái khổ của Kiệt Tấn bị che khuất trong giận dữ[21] và trong tuổi trẻ thiếu... kinh nghiệm về đau khổ (để được cảm thông?). Cho nên dù là thơ được đọc 40 năm về sau! Ðúng ra, độc giả có thể có cảm thông mà khó biểu đồng tình được, vì những chọn lựa dễ dãi của tác giả cho dù đọc/đặt thơ lại trong bối cảnh lịch sử ngày đó, năm 1966. Chính vì những chọn lựa dễ dãi này, về sau những người như Kiệt Tấn, Nguyễn Thị Hoàng, Lệ Hằng... sẽ dễ bị chỉ trích bởi đôi bên kẻ thua cũng như người thắng. Nhưng ai là người đã chọn đúng con đường? Ai dám tự cho mình là đã hành động đúng nhất? Lựa chọn nào cũng chỉ dễ dàng một cách tương đối khi các yếu tố bên ngoài (như hoàn cảnh, sự tình cờ, may rủi...) đã góp phần quyết định không nhỏ? Phê phán, xét nét chuyện đã qua dễ ợt như trở bàn tay. Trong những người trực tiếp tạo nên thời cuộc - một cuộc biển dâu thê thảm (kinh thiên động địa!) - như thời vừa qua, nếu có ai dám quả quyết rằng đã biết trước kết cục (đời mình và đời bạn đồng hành sẽ đi về đâu), chắc chắn họ sẽ trở thành tỉ phú nếu mở tiệm coi bói vận mạng tương lai!

Thật tình mà nói, trong cuộc bể dâu ấy, tình hình tuy bắt đầu sôi động từ 1965, nhưng (người thành thị) cũng phải chờ đến hai năm sau chiến tranh mới leo đến cao điểm kinh hoàng là Tết Mậu Thân 1968. Với cường độ lên xuống ít nhiều (hội đàm, hiệp định Paris, ngưng bắn) để lần lượt leo đến những cao điểm khác, và theo đó bập bềnh đời sống và bấp bênh vận mệnh con người.
Bọn con nít chúng tôi, sinh trước hiệp định Genève đôi ba năm thì như nói ở trên, "tiu nghỉu, thất vọng" vì hết được "tung tăng" nhưng thế hệ lớn hơn tôi thuộc lứa tuổi biết "kháng chiến 9 năm là gì" trở lên - ít ra là một số ở thành phố, trong đó có Kiệt Tấn - là những thế hệ thanh niên có học thức, đang phơi phới bước vào đời sống và xã hội; sau một thời kì tương đối thờ ơ, không chú ý đến chính trị, họ dần dà mất đi hi vọng và lạc quan, dần dà có những suy tư xao xuyến vì họ nhìn thấy rõ ràng từng bước leo thang của tử thần và cỗ xe thảm kịch trầm trọng liên quan thiết thân đến họ, tuy chậm mà chắc, đang lừng lững tiến đến nuốt chửng họ. Mỗi người phản ứng hay thích ứng một cách. Và không thể nào có nhiều cách hơn.
Bạn trong lớp có một đứa mất tích (sau này mới biết nó là Việt Cộng nằm vùng, bị "Mĩ Thiệu" bắt giam ở Thủ Ðức)...
Tôi còn nhớ sau Tết Mậu Thân, bị nghỉ học vì trường bị trưng dụng chứa đồng bào tị nạn chiến tranh, bạn bè đến rủ tôi ghi tên cùng đi cứu trợ đồng bào, dọn dẹp nhà cửa bị cháy ở Chợ Lớn v...v...Ðó là lũ nhóc trung học chúng tôi. Còn các phong trào sinh viên, có rất nhiều sinh hoạt: ca đoàn, du ca, dân ca, thanh niên phụng sự xã hội, Phật tử, công giáo vân vân...
Nhưng rõ ràng là trước đó, hãy còn ít nhiều dư âm của gần 10 năm thanh bình kể từ sau hiệp định Genève.
Theo Ðặng Phong, trong "Kinh tế miền Nam Việt Nam thời kì 1955-1975", NXB Khoa Học Xã Hội, khi so sánh hai miền Nam Bắc trong thời kì từ 1955 đến 1960, cho biết về kinh tế, nông nghiệp và công nghiệp, miền Nam phát triển rõ rệt trong thời kì này, và so sánh với vài nước trong vùng, có tỉ lệ tăng trưởng kinh tế đôi khi còn vượt hơn nữa "nhưng trong lĩnh vực văn hoá và y tế (...) miền Nam có một sự trì trệ và một khoảng cách khá xa so với miền Bắc. Thí dụ năm 1955, trong tổng số 1.288.000 người đi học ở miền Bắc mới có 1200 người học đại học. Ðến năm 1960, con số này đã là 16.700 trong tổng số 4.537.000 người đi học. Còn ở miền Nam, năm 1955, số người học đại học gấp đôi ở miền Bắc (2.400) tuy số người đi học ít hơn nhiều (714.000 người). Số người này càng ngày càng giảm , đến năm 1960 thì chỉ còn 576.000 được đi học, trong đó có 900 người học đại học…" Xa hơn một chút, Ðặng Phong viết "quân đội 223.000 năm 1960, 571.200 vào năm 1965" (Còn những con số về kinh tế, quân sự miền Bắc? Dù sao, với chính sách, cách tổ chức rập khuôn Tàu, nặng về tuyên truyền và giấu diếm, ngụy trang, có lẽ chúng ta khó thể tin được!?)
Ở miền Nam, theo các số liệu trên, hơn ba trăm ngàn thanh niên (bỏ học?) đi lính và không thêm ai thi đậu tú tài để vào đại học, kể cả đám con gái không bị bắt lính vào năm 1960!) đó là trì trệ và khoảng cách về văn hoá?
Tôi nghĩ có lẽ tác giả Ðặng Phong muốn nói: trì trệ văn hoá, và khoảng cách dài thêm giữa đôi bên chính là ở chỗ miền Nam không có chương trình giáo dục tuyên truyền và kích thích tinh thần chiến đấu và lòng căm thù đối phương, không có một cái gì "nhất trí", không có cái gì với một lãnh tụ, một đường lối duy nhất? Chẳng chịu học căm thù "thằng" địch?
Thật vậy, thuở đó, tôi còn nhớ, vào năm học lớp đệ thất, 1962, rồi đệ lục, đệ ngũ, đệ tứ: ngoài màn buổi sáng (toàn trường) chào cờ (và một lớp) hát quốc ca như đã nhắc ở trên, khiến chúng tôi mất hai mươi phút, nửa giờ tối đa, toàn bộ thời gian chương trình học còn lại dành cho những môn toán, lí hoá, vạn vật, sử địa, công dân giáo dục (học những thứ vớ vẩn chẳng ích chi cho cuộc chiến tương lai: giữ vệ sinh - vệ sinh thân thể và nhà cửa, đường phố - tôn trọng luật đi đường, học nữ công gia chánh, thể dục, bổn phận công dân: tuân theo luật pháp, quyền bầu cử, phân chia tam quyền, tư pháp, lập pháp, hành pháp vân vân, những bài học rất sơ lược nhưng khá rõ ràng và còn để lại chút gì trong đầu tôi bây giờ), còn về chương trình Việt văn, thầy cô dạy chúng tôi và cũng như dạy tất cả trai gái cùng tuổi tác và thế hệ có đi học (trường Việt)[22] gồm có: văn chương bình dân, truyền khẩu, vua Lê Thánh Tôn và Hội Tao đàn, chữ quốc ngữ với giáo sĩ Alexandre de Rhodes. Năm sau: Lý Bạch, Tô Ðông Pha..., thơ văn Lý Trần, Nguyễn Trãi với Bình Ngô Ðại Cáo, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Kim Vân Kiều với Nguyễn Du, Bích Câu Kỳ Ngộ, Lục Vân Tiên và Nguyễn Ðình Chiểu. Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh..và Tự Lực Văn Ðoàn...
Chắc chắn các đàn anh trước đó niên khoá 1956 trở đi cho đến lớp đàn em tận tháng tư 1975, cũng đều học như thế ở bậc trung học chương trình Việt. Chúng tôi không hề biết một cách rõ ràng, khúc chiết lịch sử những nguyên nhân, hệ quả đã đưa đến cuộc chiến. Trong chương trình học đường tôi nhớ cũng không hề có giáo dục bắt buộc hay tuyên truyền tốt lành gì cho (phe ...ta trong) cuộc chiến tranh đang diễn ra[23].
Thì thử hỏi, khi chạm mặt với cái chết, với súng đạn, mô mìn, bom pháo, và... Việt cộng. Bối rối, lạc lõng, kinh hoàng, tuyệt vọng đến là chừng nào! Và xin nhắc lại: mỗi người phản ứng hay thích ứng một cách. Bản năng sinh tồn khiến mỗi người tự vệ một cách. Hoặc vô tình hay cố tình không nhìn thấy chiến tranh. Thích ứng ít nhiều với chiến tranh vì cuộc sống, vì tuổi thanh niên. Bất bình, phẫn nộ, nhưng có thể chối từ dấn thân vào bên này hoặc bên kia. Hoặc dấn thân kịch liệt hoặc cực chẳng đã bên này hoặc bên kia. Sau 1968 và 1973 là xen kẽ những khoảng thời gian vui mừng tin tưởng ở hoà bình hay chiến thắng sẽ đến.

Kiệt Tấn không thoát ra được vòng hệ luỵ ấy: được hoãn dịch hay động viên tại chỗ, Kiệt Tấn phải sống và tiếp tục cuộc hành trình: tốt nghiệp ngành kinh tế, làm chuyên viên rồi công chức khá cao cấp về kinh tế.
Trong cuộc sống, với nỗi bất lực của sinh vật bé con trước bộ máy chiến tranh khổng lồ, như bao nhiêu người nghệ sĩ khác, cái tình cảm bao la và lòng mẫn cảm to lớn trong con người Kiệt Tấn khiến ông nhanh chóng tìm quên trong rượu chè, bạn bè, chơi bời.
Những bài thơ hãy còn nét vụng về và tình cảm thời thượng. Có thể sẽ khó gây được cảm tình và thông cảm nơi những người dấn thân hơn và dĩ nhiên, càng khó hơn nơi kẻ chiến thắng!
Nhưng những tư tưởng, tâm sự phôi thai hoặc chỉ được nhắc sơ sài trong những bài thơ này sẽ lộ rõ, được anh phân tích, tỉ mỉ nhắc nhở mấy mươi năm về sau trong những tập truyện ngắn dài sau này.

Vài năm sau Ðiệp khúc tình yêu và trái phá, Kiệt Tấn sang Pháp, theo một chương trình tu nghiệp, và kẹt lại sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tác giả đành phải bỏ lại sau lưng tất cả những hình ảnh khốc liệt ấy. Khi đó, kí ức của chàng thanh niên ba mươi mấy tuổi chắc chắn còn đầy ắp những ngày tháng tuyệt vọng, bực bội và thành phố Sài Gòn với những bài hát Trịnh Công Sơn và tràn ngập thêm những lo âu, hoang mang mới: gia đình xa cách, cuộc mưu sinh nơi đất lạ. Tất cả đã nung nấu nuôi dưỡng mầm mống cho những tập truyện ngắn dài ra đời ở Pháp và Mỹ trong thập niên 80, và tập thơ thứ hai.

***

Kiệt Tấn bắt đầu sáng tác trường thi Việt Nam Thương Khúc - gồm 3100 câu - năm 1984, trong vòng ba tháng, ông viết được khoảng hơn hai ngàn bảy trăm câu rồi bỏ dở vì chán ngán, cho đến 1986 mới có hứng tiếp tục và chấm dứt 300 câu thơ cuối chỉ trong một đêm! Trong bài giới thiệu, nhà văn Nguyễn Văn Sâm không tiếc lời khen ngợi Việt Nam Thương Khúc.
Tập thơ vần điệu vô cùng này – và với vần điệu cổ điển thuần tuý Việt Nam nhất! - nối tiếp một truyền thống tưởng chừng như đã mất dấu hồi đầu thế kỉ 20. Tưởng chừng như nhà thơ, sau cơn giận dữ, sau cuộc bể dâu, sau những ngày ngao du sơn thuỷ, bỗng quyết định trở về mái nhà xưa, nhìn lại chốn cũ xác xơ bằng đôi mắt đã khô lệ, bằng tâm hồn chảy máu, sôi sục thương hờn nhưng bình tĩnh, kiểm điểm lại những mất còn, tan vỡ và từ tốn thay chiếc áo "bành tô" giang hồ bằng chiếc áo dài the thâm/bà ba vải ta thô mềm, ngồi xuống trước bàn hương án của cụ ngoại, viết lại những vui buồn đau thương thù hận tang tóc diễn tiến nơi quê hương trong gần một thế kỉ, một cách nói lên "nhịp đập hồn nhiên của con tim trong mỗi người Việt chúng ta" và cái "rung cảm phù sa" trong mạch máu của chính mình. Nối lại một thân tình nào đó, tưởng đã bị thời gian và lịch sử bôi xoá. Dù chủ ý tác giả chỉ là "cống hiến mấy vần thơ".[24]
Thật vậy sau Ðoạn Trường Tân Thanh, Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán Ngâm Khúc, Lục Vân Tiên, chưa có một trường thi nào với độ dài đáng kể và với đề tài chiến tranh như thế.
Những người cuối cùng sử dụng lối lục bát cổ điển và nhất là song thất lục bát trong các công trình thật dài hơi[25] đã qua đời cách đây hơn 50, 60 năm, trong đó phải kể đến Phan Bội Châu Phan Chu Trinh, với những lời lẽ thiết tha hùng hồn trong Hải ngoại huyết thư nhắn nhủ đồng bào quốc dân, vực dậy cả một thế hệ thanh niên.

Lời huyết lệ gửi về trong nước
(...)
Nhác trông phong cảnh năm châu
Gió mây phẳng lặng dạ sầu ngẩn ngơ
(...)
Ðem nhời này khuyên nhủ cùng nhau
Nước ta mất bởi vì đâu?
Tôi xin kể hết mấy điều tệ nhân:
Một là vua sự dân chẳng biết
Hai là quan chẳng thiết gì dân
Ba là dân chỉ biết dân
Mặc quân với quốc, mặc thần với ai
(...)
Vì đâu dân nước khốn cùng
Hỏi ai sướng miệng cam lòng hay chưa?
...
Phan Châu Trinh trong Tịnh quốc hồn ca:

Ngồi mà nghĩ con Hồng cháu Lạc
Trước vẻ vang rân rác là bao
Nam lấy Chiêm, Bắc cự Tàu
Cao Miên, Làốt thâu vào một tay

Nguyễn Thượng Hiền trong Hợp quần doanh sinh thuyết:

Nước Nam ta nào có kém ai
Bốn nghìn dặm đất giăng dài


Kiệt Tấn không tỏ giải cùng người quốc dân hay Ðem nhời này khuyên nhủ cùng nhau mà chỉ nhỏ nhẹ cho biết hoàn cảnh, thời gian, cõi viết

Thân đất khách một mình xui nhớ
Hương đêm dần dần nở khúc thương
(...)
Ba sông một mẹ đau thương ngút trời
(...)
Ba đời gươm súng thê lương

Việt Nam Thương Khúc bắt đầu từ năm 1920 lúc nước ta hãy còn bị Pháp đô hộ cho đến cuộc chia cắt Bắc Nam, rồi chiến tranh Nam-Bắc-Mĩ qua đến chiến thắng của miền Bắc với cuộc thống nhất gây ra đợt di cư thứ hai, trong những hoàn cảnh đau thương và kết thúc vào 1985/1986, lúc những cuộc vượt biển trở nên hiếm hoi vì thế giới không còn muốn cứu vớt thuyền nhân nước Việt.
Trong bối cảnh lịch sử đó, Kiệt Tấn kể lại một cuộc đời nông dân miền Nam rất tiêu biểu và vô cùng thăng trầm theo vận nước từ đầu thế kỉ 20: hai vợ chồng tá điền trẻ vùng quê Bạc Liêu (độc giả có thể thay Bạc Liêu bằng Bến Tre, Vĩnh Long, Sa Ðéc vân vân) bỏ quê cha mồ mả tổ tiên, bỏ ruộng thuê, bỏ công việc cày cấy khổ nhọc, ra thành phố sinh sống với hi vọng đời con mình sẽ khá hơn.
Ra ngoài thành thị, người nông dân trẻ được giúp đỡ tá túc, sau đó học nghề trở thành thợ mộc. Cuộc sống nhờ ý chí tự lập và "nhất nghệ tinh" ấy, vừa trở nên khả quan hơn thì xảy ra chiến tranh khắp nơi (đệ nhị thế chiến / chống Pháp). Thế chiến chấm dứt, đem cơ hội giành độc lập cho Việt Nam và bắt đầu nội chiến.
Ðộc lập không đúng nghĩa vì kèm theo cuộc phân chia Nam Bắc và chiến tranh tiếp tục dữ dội tàn nhẫn ít lâu sau đó, kéo dài thêm đủ một thế hệ thanh niên hai mươi năm. Thế nhưng thanh bình tới, cũng tàn nhẫn, gây chia lìa tang tóc không kém. Tất cả phần tử trong gia đình người nông dân ấy, dĩ nhiên cũng sống được những khoảnh khắc hạnh phúc khi mới biết yêu hay buồn bã thất tình qua bi kịch riêng tư, nhưng phần lớn cuộc đời bị cuốn vào cơn giông lịch sử, gia đình tan rồi họp, họp rồi tan, có kẻ bị hãm hiếp, chết trong cuộc kháng chiến, có người tàn tật qua cuộc nội chiến, và khi đất nước thống nhất, con cháu họ bị cướp nhà, bị tù tội, phải vượt biên, tha phương để lại khiến gia đình một lần nữa khóc cảnh chết chóc, chia lìa.
Nhiều người "chánh gốc Nam Kì quốc" thường thường bậc trung có thể nhận ra bóng hình mẹ cha, ông bà mình hay bà con thân cận trong gia đình "bác Tám thợ mộc" này.

Sau đây là những câu thơ trích, ghi lại những biến cố chính xảy ra trong mấy mươi năm dâu biển :
Vừa sinh con đầu lòng, người đàn ông trẻ quyết định bỏ ruộng (thuê) trốn ra chợ, mong con mình có một tương lai đẹp đẽ và sung sướng hơn

Lớn lên cố gắng con ơi
Ðừng như ba má mõn đời cấy công
(...)
Chí đã quyết bôn đào điền chủ
Lời giải phân khuyến dụ thê nhi
Nửa đêm xuồng nhỏ ra đi
Lìa nơi cắt rún phân li xé lòng
(...)
Cho đến khi "đã lâu nương náu luỵ phiền
giờ đây đủ cánh thân liền tự bay"
..."thôi thì lạy thánh Lỗ Bang
Vái rồi xin Tổ lên đàng lập thân"
Một cuộc đời rất tiêu biểu cho một số đông dân thành phố miền Nam gốc vườn. Nơi đất lành chim đậu ấy :

Áo Hậu Giang rạt rào lúa sữa
Bụng phù sa đầy bữa cơm no
(...)
Câu vọng cổ đêm tàn ray rức
Ðiệu xàng xê thao thức chờ mong
Trăng chinh phụ nhớ thương chồng
Vàng con nguyệt cũ sương hồng giấc xưa
(...)
Lời cục mịch tiếng cười chân thật
Láng giềng gần cô bác gạ quen
(...)
nhưng khung cảnh thanh bình này không đáng kể bởi vì "Ðời Pháp thuộc trăm phần áp bức":

(...)
Rợ Tây, lính kín cặp rằng
Súng đe roi đánh vết hằn dân đen

Hình ảnh ước lệ và bình dân, đơn giản hoá: người dân phải chịu sưu thuế, làm việc cực khổ mà hễ rục rịch chống đối là:

(...)
Hé răng Bà Rá lao tù
Côn Nôn Phú Quốc ôm thù rục xương

Nhưng khắp nơi đều có chống đối khiến thực dân bố ráp đêm ngày, nhất là sau khi Việt Nam Quốc Dân Ðảng khởi nghĩa và Nguyễn Thái Học bị Pháp xử tử.

Xảy thế giới trùng trùng dậy lửa
Khắp địa cầu chìm giữa máu tanh
Mỹ Nga Ðức Nhựt Ý Anh
Phân làm hai khối chiến tranh rợp trời
(...)

Cuộc "thổ" dậy: người Cao Miên đánh giết người Việt:

Cáp duồn hô cổ Việt chém phăng
Khờ Me trở mặt hung hăng
Trà Vinh thây rụng Sóc Trăng rơi đầu

Khi Nhật đảo chính Pháp tại Ðông Dương, các đảng phái mới cũ thừa cơ vùng dậy: Việt Minh, Quốc Dân Ðại Việt v..v.. cuộc kháng chiến chống Pháp mở đầu:

Nào những lúc ngăn dòng nước địch
Rơm tẩm xăng xạ kích tàu Tây
Dừa leo khư súng một tay
Bắn lui thuyền chiến xua loài nhiễu nhương

Người con lớn tên Quang lên đường... vô bưng kháng chiến và gặp gỡ người yêu. Sau đó đôi nhân tình Quang – Lan lạc nhau.

Men tình ái luyến chàng trai trẻ
Bận đầu tiên lòng khẽ hỏi lòng
Phải chăng tình núi duyên sông
Thì thanh bình lại tin hồng gửi nhau

Về sau, tình cờ Quang gặp Dung, một cô bạn từng đi chung kháng chiến với Quang và Lan. Dung còn giữ kỉ vật của Lan: lọn tóc gửi Quang và... một đứa con gái lai Pháp. Thì ra Lan sau khi chia tay Quang, lưu lạc, lấy chồng Pháp, bị kháng chiến (Dung!) trừng phạt tội phản bội này. Dung sau này mới thú thật là thi hành lệnh đảng, giết bạn và nuôi con bạn! Một số phận thê thảm khác dành cho cô gái đẹp đẽ em Quang: Duyên, bị một tên lính kín vu oan bắt nhốt và đem dâng cho Tây. Bị hãm hiếp, Duyên bỏ gia đình trốn đi và ít lâu sau đó trở lại ôm lựu đạn xông đến giết kẻ đã hại mình đồng thời tự sát luôn. Ðây là (một phần) tâm sự Quang khi mất dấu người yêu:

(...)
Khi trở lại biết là gặp lại
Hay còn chăng quan tái sâm thương
Gan sắt đá dạ can cường
Mà sao lòng luống đoạn trường đòi cơn
(...)
Khi trận chiến chưa tàn
Gào cơm trẻ khóc thiết tha (?!)
Em trễ hẹn ta trông mút mắt
Một ngày không thấy mặt ngẩn ngơ

Hỏi Cầu Lộ đường tình ta tiễn
Hỏi Ngã Ba én liệng phố cao
Hỏi Thiềng Ðức hỏi Cầu Tàu
Hỏi đêm Cái Cá đêm nào dấu em

Vào thời loạn, chia tay nhau một lần đôi khi cũng là vĩnh biệt.

Hỏi phượng vĩ trưa rèm bông đỏ
Hỏi cau khuya bóng nhỏ đường trăng
(...)
Quên chăng mắt ngọt môi mời
Quên rồi dạ lý đêm ngời tóc thơm
Quên rồi chắc mùi thơm vườn cũ
Quên ruộng dưa quyến rũ dưa leo
Quên chăng cầu nhỏ ao bèo
Quên trăng chênh khuyết áo nhèo giọt thu

Hai người em kế Quang cũng bị cuốn vào cơn lốc thời cuộc.
Kiệt Tấn vẽ lại thật rõ ràng không khí lãng mạn thời gian đầu kháng chiến với những bài hát quen thuộc với nhiều người nói chung, những tác phẩm còn lưu truyền cho đến 60 năm sau của Văn Cao, Ðặng Thế Phong, Phạm Duy, Lưu Hữu Phước... thơ Quang Dũng, Hoàng Cầm... thời bấy giờ khiến nức lòng thanh niên cho dù gặp những khó khăn nguy hiểm.
Và khi đó tình hình thay đổi rất nhanh chóng: Ngoài Bắc, quân Pháp - Việt đánh nhau ở Cao Bằng, Lạng Sơn. Ðau thương thành phố: Nhật bắt trồng đay thay vì lúa, gây ra trận đói kinh hoàng năm 1945:

Triệu dân chết da xanh bụng rỗng
Ðịa sông Hồng bãi rộng tha ma

Trong Nam, Hoà Hảo, Cao Ðài, đội quân Năm Lửa, Ba Cụt, Bảy Viễn, yêng hùng nhiều cõi, loạn lạc khắp nơi. Một trong những lí do khiến người kháng chiến bỏ về thành phố là cái chết Nguyễn Bình. Người chỉ huy Quanng tuyên bố tan hàng, cho quân kháng chiến tự lựa chọn đường đi. Quang bỏ kháng chiến về thành.
Sau khi bại trận ở Ðiện Biên Phủ, Pháp phải rút quân, rồi chia cắt nước Việt Bắc Nam nơi vĩ tuyến 17. Dân chúng, cán bộ, quân kháng chiến... tập kết ra Bắc, tản cư vào Nam. Bắc trở thành nước cộng sản dân chủ cộng hoà. Nam, "thành trì" tư bản cộng hoà!
Ðệ nhất cộng hoà tổng thống Ngô đình Diệm tảo trừ phiến loạn Bình Xuyên, Rừng Sác. Nước được thanh bình khoảng 9, 10 năm. Ðó là khoảng thời gian của Chuyến đò vĩ tuyến, Khúc nhạc đồng quê, Duyên thề, Mùa thu quyến rũ, Dư âm, Suối mơ, Sơn nữ ca, Buồn tàn thu... được phổ biến rộng rãi, những bài hát cho đến ngày nay, chúng tôi vẫn còn hát và còn nghe ở hải ngoại! Như những mảnh đời, những kỉ niệm khó quên của nhiều người.
Trở lại các nhân vật Thương khúc, số mệnh họ gắn liền với miền Nam:
Linh em trai Quang, có người yêu Liên quê Sa Ðéc. Một hôm Linh tiễn nàng về quê ăn Tết và không bao giờ gặp lại, thì ra nàng phải... sang ngang.

Bỗng ân ái mặn mà đứt phựt
Bỗng non tình sa vực sẩy hang
(...)
Hận ai kia bóp chết tình nhau
Hận ai bến mới duyên vào
Hận ai ôm ấp mận đào giờ đây
(...)
Nửa phù dung nửa sớm nửa trưa
Nửa tim nhói nửa hơi thừa
Nửa đời ta đó em bừa xéo đi

Thất tình, đau khổ, Linh tình nguyện vào trường Võ bị Ðà Lạt. Và tại thành phố

Xứ hoa ngàn tía rộn ràng
Kim hương đua cúc mai lan chen hồng

này chàng gặp duyên mới: Tuyết, một cô gái gốc Hà Nội, mẹ mất vì buồn con trai cả tử trận, rồi cha bị đấu tố chết lúc cộng sản tiếp thu Hà Nội. Tuyết vào Nam với dì, lạc dấu người em trai tên Trung. Thế là cuộc tình nẩy nở, lần này Linh cưới được người mình yêu. Ðể rồi kẻ phải ra trận, người về hậu phương sinh sống. Lúc bấy giờ Mặt trận giải phóng miền Nam ra đời "Trận bày trận thiệt Mặt làm bình phong"

Xua binh giáp tấn công Trảng Sụp
Ấp Bắc kia phô sức điều binh
Chung quy chỉ tội dân tình
Ngày Quốc đêm Cộng thân hình xẻ đôi

Ấp Bắc, Trảng Sụp: địa danh những trận đánh lớn đầu tiên ở các tỉnh lớn lân cận. Nơi thủ đô Sài Gòn bây giờ tình hình chính trị sôi động, gia đình ông Diệm làm mất lòng dân vì chính sách đàn áp Phật giáo (cấm treo cờ, cấm biểu tình...).
Sau khi đảo chánh, các tướng lãnh liên miên tranh quyền, lật đổ nhau... cho đến khi hai tướng Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ lên nắm chính quyền:

Thời cơ chớp tức thì quân cộng
Vết dầu loang mở rộng chiến khu
Ðồng Xoài Bình Giã âm u
Mùa mưa chiến dịch mịt mù máu xương

Thế là quân Mĩ đổ bộ vào. Có quân sư Mĩ tin tưởng rằng chỉ vài tháng là bình định được nhưng chiến trận càng lúc càng quyết liệt, người Mĩ phải kêu gọi đồng minh "thế giới tự do" giúp sức. Tân Tây Lan, Nam Hàn, Úc, Thái... đổ người đổ quân vào. Như thêm dầu vào lửa.
Mĩ phải dội bom miền Bắc. Tất cả vẫn lại là chế thêm xăng vào lửa. Thế giới yêu hoà bình kêu gọi ngưng chiến. Bắt đầu có những khoảnh khắc ngưng chiến... có tính cách chiến lược, chiến thuật. Năm 1968, Mặt Trận tuyên bố "hưu chiến cho đồng bào ăn Tết" nhưng đúng đêm giao thừa và mồng 1, quân lính MT và quân Hà Nội mở cuộc tổng tấn công khắp mọi thành phố lớn và Sài Gòn. Họ chiếm được vài nơi quan trọng hoặc có tính cách tiêu biểu, cố thủ vài ngày rồi bị đánh bật ra. Ở Huế[26], họ chiếm được lâu nhất (26 ngày) nên xảy ra nhiều vụ thanh trừng đẫm máu: hơn hai ngàn người gồm thường dân, công chức cao cấp, trí thức, sĩ quan... bị "cách mạng và nhân dân" xử tử tàn nhẫn, chôn chung trong nhiều hố hầm đào vội[27].

Xuân lửa máu mịt mù đất nước
Tết Mậu Thân ai được ai thua
Dân Nam ngọn cỏ gió đùa
Chết bao nhiêu chết cho vừa chiến tranh

Nhưng cuộc sống bao giờ cũng lấn lướt đau thương chết chóc, chỉ ít lâu sau:

Nền kia lại đắp lại đào
Nhà kia lại cất xây cầu nối sông
(...)
Sài Gòn lại Sài Gòn như trước
Hè Tự Do rộn bước giai nhân
(...)
Khánh Hội cũng chen phần góp tiếng
Nọ Tư Sanh nhiều miếng ăn ngon
Lươn um đùi ếch chiên dòn
Lòng xào khoái khẩu lưỡi mòn cá chưng
(...)
Hè Lê Lợi treo đầy vải vóc
Sách bán sôn bày dọc lề đi
Viễn Ðông nước mía nhâm nhi
Thanh Xuân hủ tiếu ganh mì Gia Long
Chợ Vườn Chuối hẻm đông bánh cuốn
(...)

Chiến trận cũng không ngừng leo thang cho đến lúc... Mĩ thấm mệt, vì dân Mĩ đòi con về nhà, vì phong trào đòi hoà bình lúc càng lớn mạnh ở tại Mĩ và tại thế giới... Cuộc thương thuyết bắt đầu: hội đàm Paris kí kết đầu năm 1973. Mỹ rút quân khỏi Việt Nam. Linh, một hôm nhận được tin nhà và tin buồn một người bạn chết trận, ra quán rượu tìm quên:

Này ly đời rụng A Sao
Này ly cạn giọt máu đào Gia ơi
Này ly rơi hỏa châu đèo Mụ
Này ly soi phi vụ Tây Nguyên
Này ly đêm hét quân truyền
Này ly cạn chén tình Liên rót đầy

Diễn tiến tình hình các mặt trận theo thời gian

Bảy Hai ba tuyến Cộng đe
Tây Nguyên Thiên Trị Cục Rờ Bình Long

Sư đoàn Năm Suối Thôn Xa Cát
Biệt Ðộng Quân Bàu Mét cầm chân

Giải áp lực Sư Ðoàn Hai Mốt
Lữ Ðoàn Dù Bàu Hót thốc vô

Ngàn đạn pháo đêm từng đêm nã
An Lộc dân thịt tả xuơng tơi

Thiết Ðoàn Trinh Sát tiểu trừ Suối Tre
Ðiền Quản Lợi Lai Khê đóng chốt

Hè Xuân ba đợt tưng bừng
Bình Long tử thủ Nhựt Hưng gan lì

Chiến xa Mê Thuột tấn công
Thiệu ra lệnh rút trú phòng Pleiku

Không đầy tháng miền Trung mất trọn
Mới xua quân nuốt gọn Tây Nguyên
Thời cơ Trà Dũng chớp liền

Tấn công năm mặt đội truyền xấn Nam
Tướng Minh Ðảo chận ngang Xuân Lộc
Quân tướng Khôi dàn dọc Tây Ninh
Vẫy vùng một trận hồn kinh
Cuối đường tuyệt vọng xả mình đột xông
Thời lai đổ điếu thành công dị
Vấn khứ anh hùng ẩm hận đa!
Hỡi ơi một cõi sơn hà
Lọt tay cộng sản hận lòa sử xanh

Chí Minh giải phóng đường mòn
Dép râu nón cối Sài Gòn từ đây

Nhắc lại lịch sử bộ đội vào Hà Nội năm 1954, tác giả viết:

Tay trong tay bộ đội vô thành
Sao vàng cờ đỏ phục xanh
Dép râu nón cối Hà Thành từ đây

Thanh bình thống nhất năm 1975, kẻ chiến thắng lo thu góp chiến lợi phẩm và trả thù người thua trận. Ðể có danh chính ngôn thuận cho chuyện độc quyền lãnh đạo đất nước, chuyện cướp của, lấy nhà, hành hạ và bạc đãi con em nguỵ quân nguỵ quyền, họ kể lể công trạng suốt ngày này qua ngày nọ, năm này qua năm nọ, bắt dân miền Nam học tập lịch sử... Chưa kể đến những chuyện quan trọng hơn: dẹp bỏ Mặt Trận giải phóng, loại trừ những thành phần tỏ ý độc lập hoặc chống đối để đảng tiếp tục lãnh đạo vận mệnh đất nước và con người Việt Nam:

Vừa chiếm đất cộng bày quản lý
Mọi thành phần đăng ký tỉnh quê
Nhân dân tài sản kiểm kê
Lăm le tính cách toan bề tịch thu
Bao năm rút chiến khu nhồi sọ
Rằng dân Nam đói khó gạo khan
Tỉnh ra bộ đội hoang mang
Miền Nam sung túc ngỡ ngàng cán quân
Bọn đầu sỏ tưng bừng giành giựt
Dinh thự cao rõ mực nguy nga
nhạc vàng gái đẹp Hông-đa
(...)
Dưới trên quỷ kế mưu tà cướp dân
Gỡ máy móc chở phăng về Bắc
Bọn cán già lộ mặt xuẩn ngu
Vùng kinh-tế-mới lập khu
Ðày dân chỗ chết hả thù dạ tham
Kết tội ngụy bắt giam tẩy não
Trại giết người cải tạo danh xưng
(...)
Thọ Phát Bình nghỉ mát bộ tam
Thủ tiêu Mặt Trận Miền Nam
Hết xôi rồi việc mặt nhàm rã tan
Óc lạc hậu tập đoàn ma giáo
Ách ngu dân lãnh đạo già nua
Vành ngoài sản xuất thi đua
Vành trong vơ vét không chừa món chi
Ðốt sách vở hủy di sản cũ
Hốt văn nhân tống rũ đề lao
(...)

Chương trình đốt sách, giam sĩ quan, trí thức tăng nhân của người chiến thắng sau 30 tháng tư 1975 được tác giả ghi lại qua so sánh với hành động Tần Thuỷ Hoàng thời cổ xưa:

Rập khuôn bạo chúa thuở nào
Thủy Hoàng thiêu tự sĩ hào chôn tươi
Cán bộ Bắc nhổm người háo hức
Vọng miền Nam hậm hực tranh nhau
(...)
Câu đầu lưỡi huyên thiên Bác Ðảng
Những nhân dân cách mạng ơn cao
Ðánh cho Mỹ cút Ngụy nhào
Tự-Do-Ðộc-Lập chi nào quý hơn
(...)
Biến đất Việt nhà tù vĩ đại
Khắp nơi nơi dựng trại tập trung
Học tập cải tạo tàn hung
Quân nhân công chức trị trừng tội xưa
(...)
Tham nhũng gấp muôn ngàn hơn trước
Cán tống tiền kẻ vượt biên cương
(...)
Xưa nay sử Việt chưa từng
Nạn dân bỏ nước ùn ùn ra đi
(...)
Ngày đêm bắt tường trình tự thú
Tội bà con bác chú kê khai
Vạch ba đời chẳng sót ai
(...)
Tinh thần khủng bố đọa đày xác thân
(...)
Cộng quản lý tiêu điều kinh tế
Dân miền Nam sưu thuế oằn vai
Tiểu thương vội trả môn bài
Ép vô tổ hợp mệt nhoài đói meo
(...)
Dân tập kếp sững sờ sáng mắt
Bắc Cộng tham quá quắt xuẩn ngu
Cán Nam bất mãn thâm thù
Cự đương xô xát đi tù thì đi
Mặt nạ rớt hay gì cõng rắn
Sài Gòn nay trĩu nặng danh Hồ
Bao năm Hà Nội xác xơ

Kéo lùi lạc hậu bây giờ toàn dân

Cuộc chiến với Kampuchia và Trung Hoa lục địa, hai anh em cùng màu cờ đỏ xhcn, bằng hữu tay chân răng môi khắng khít từ trước đến nay: bỗng một ngày răng cắn môi cắn lưỡi, tay chặt tay chặt chân: thêm hàng trăm ngàn người chết. Với Tàu hơn một tỉ dân thì hàng trăm nghìn người chết chả thấm thía vào đâu... Bây giờ họ sinh sôi và xây dựng hàng trăm lần hơn ta!

Cộng Hoa Cộng Việt trận dàn biên cương
Việt Nam lại thê lương lửa khói
(...)

Ngạc nhiên nhất là những đoạn thơ kinh sau đây, Kiệt Tấn ngâm tụng nhuần nhuyễn và với lòng thành:

Nam mô Sư Bổn Mâu Ni
Nam mô Phật bảo tì thi xá phù
Nguyện tinh tiến tiêu trừ ác nghiệp
Niệm Di Ðà dẫn tiếp chúng sanh
Nam mô Vô Lượng âm thanh
Nam mô đẳng Phật thượng hành hạ phương
Thụ trì giới che thân ba áo
Dứt muội mê điên đảo sát na
Nam mô ư bát la hoa
Nam mô tịnh độ Di Ðà Thế Tôn
Phát nguyện cửa thiền môn sám hối
Chánh quả xua ác tội dứt duyên
Nam mô tôn giả Mục Liên
Nam mô hải đức bạc chiên hương đàn
Vầng minh nguyệt đánh tan sương móc
Ðại từ bi vung gốc thiện căn
Nam mô nhất kiến danh vang
Nam mô biệt Phật vô phân đàn trầm
Bồ Ðề niệm Thế Âm Bồ Tát
Chính kiến sinh cực lạc mười phương

Nam mô hải tuệ thông vương
Nam mô phổ tán Kim Cương tạng từ

Văn Thù Sư Lợi ý kinh Phật truyền
Dòng Bồ Tát định thiền bát nhã
Nghiệp chướng sanh thọ giả phàm phu
Nam mô Bồ Tát Văn Thù
Khắc hàng lục tặc giải trừ nghiệp căn
(...)

Thương Khúc chấm dứt như sau:

Ðảo điên sông núi ba miền
Việt Nam Thương Khúc sử truyền thiên thu

3100 câu thơ cho hơn bốn mươi năm đời người qua ba thế hệ "bầm dập" trôi nổi qua mấy cuộc chiến tranh tàn khốc. Trong lịch sử hậu chiến tranh (Việt Nam / Việt Nam) trước đây (Trịnh Nguyễn) kể chứng cớ xã hội có Nguyễn Du với Kiều, Văn tế Thập loại chúng sinh. Có Nguyễn Ðình Chiểu (Việt Nam/Pháp) với Lục Vân Tiên, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, có Bình Nguyên Lộc với tập thơ Ba Mén. (Và Phạm Thiên Thư với Ðoạn trường Vô thanh, Ðộng Hoa Vàng: nhưng hai tập thơ quá đẹp đẽ này không có tính cách "thời sự và lịch sử").
Có lẽ phải nói Kiệt Tấn là người Việt duy nhất thực hiện một công trình dài hơi theo thơ lối cổ điển cuối thế kỉ 20 ở hải ngoại.
Trong nước, Nguyễn Bính để lại tập thơ trên 2000 câu làm theo thể song thất lục bát tựa là Truyện Thơ xong năm 1957. Ngoài ra Nguyễn Bính còn những bài thơ ngắn, đại khái như bài sau đây làm ở Nam Ðịnh, mùa xuân 1965, ra trước tập Ðiệp khúc tình yêu và trái phá:

Khi giặc Mĩ thua đau cút thẳng
Cả hai miền chiến thắng reo vui
Anh về đời lại thêm tươi
Nhà ta vui lại gấp mười ngày nay
...

Như vậy, ông Ðặng Phong sẽ lại có dịp so sánh (một kiểu) tâm tình (và con người-thi sĩ-) hai miền qua một chứng từ văn hoá độc đáo về/ trong khoảng thời gian (đánh nhau) chia cắt. Có lẽ khá tiêu biểu cho cho hai xã hội.

Ðọc xong hai tập thơ Kiệt Tấn, như hai đánh dấu cho hai thời kì trong cuộc đời (thanh niên trong nước và trung niên hải ngoại) rồi đọc lại những truyện ngắn, truyện dài ông viết cùng thời gian sáng tác sung mãn nhất, tôi thấy Kiệt Tấn rất phong phú dù trước sau như một!
Ðiệp khúc tình yêu và trái phá thời thượng bao nhiêu thì Thương khúc cổ điển bấy nhiêu, và chứa phần lớn (90 % ?!) Kiệt Tấn trong đó.
Một phần nhỏ cổ điển, rất cổ điển ước lệ, thậm chí ước lệ cả chữ nghĩa và tứ thơ (sâm thương, chinh phu, ê chề, bặt tin chim cá, liễu yếu, đào thơ, xiêm y, phòng the, quan ải, tử sĩ... vân vân, nhưng có lẽ sẽ rất mới cho những người trẻ (có cái vốn phong phú quá bình dân và nôm na bây giờ). Phần lớn chữ dùng rất giản dị, bình dân, rất Nam kì, nhưng nhịp điệu lôi cuốn, dồn dập, khiến người đọc không chán.
Kiệt Tấn đã giữ lời hứa khi ông giải thích lí do dùng thể song thất lục bát để "mô tả những tình tự khốc liệt" lúc "khổ đau cùng cực" hay "hân hoan quá đỗi" vì "rần rật phong ba, rộn ràng vó ngựa, lửa tuôn khói bốc" cũng như "đôi lúc ngậm ngùi muốn khóc".
Bằng chứng là những trích đoạn mô tả chiến sự sôi bỏng hay tình hình chính trị oan trái cùng cực (khi cộng sản chiếm được miền Nam) trên kia, hay trong những phút giây đau đớn trầm uất, tuyệt vọng:

Này ly rót những giờ tan tác
Này ly nâng tình nhạt son phai
Này ly máu đổ mệt nhoài
Này ly hâm nóng lạnh hoài tình em
Này ly uống say mèm đón Tết
Này ly say toan chết tình đầu
(...)
Ðâu bùi ngọt gối cùng tay ấp
Ðâu nguyện thề sửa trấp nâng khăn
Ðâu dây ràng buộc xích thằng
Ðâu lời đồng tịch đồng sàng lửa thiêu
...

Ðâu... thua gì Cung Oán :

Nghĩ thân phù thế mà đau
Bọt trong bể khổ bèo đầu bến mê

Ðâu thua gì Thúc Sinh tuy "con tằm đến thác cũng còn vương tơ" mà cắn răng khuyên người tình hãy ra đi trước khi vợ mình tới:

Liệu mà cao chạy xa bay
Ái ân ta có ngần này mà thôi
Bây giờ kẻ ngược người xuôi
Biết bao giờ lại nối lời nước non?

Khi Tuyết trốn trong chùa Vĩnh Tràng và xin quy y, theo lời thầy, Tuyết tụng kinh niệm Phật, kinh sám hối diệt khổ và giải oan, biến cải nghiệp mình, trong suốt 4 trang thơ hơn 100 câu. Tưởng như chính tác giả đọc kinh giải oan, biến nghiệp, sám hối vân vân cho dân mình, cho tất cả những gia đình đã tả tơi mất mát thương tật trong suốt hơn 3000 câu thơ. Thêm phần trích ở trên và phần sau đây:

Nam mô tịnh độ Di Ðà Thế Tôn
Phát nguyện cửa thiền môn sám hối
Chánh quả xua ác tội dứt duyên
Nam mô tôn giả Mục Liên
Nam mô hải đức bạc chiên hương đàn
Vầng minh nguyệt đánh tan sương móc
Ðại từ bi vun gốc thiện căn
Nam mô nhất kiến danh vang
Nam mô biệt Phật vô phân đàn trầm
Bồ Ðề niệm Thế Âm Bồ Tát
Chín kiến sinh cực lạc mười phương

Nam mô hải tuệ thông vương
Nam mô phổ tán Kim Cương tạng từ
(...)
Dòng Bồ Tát định thiền bát nhã
Nghiệp chướng sanh thọ giả phàm phu
Nam mô Bồ Tát Văn Thù
Khắc hàng lục tặc giải trừ nghiệp căn

Nghe chừng như Kiệt Tấn đối đáp phụ hoạ (và một cách tích cực hơn) với tác giả Cung Oán ngâm khúc:

...Thảo nào khi mới chôn nhao
Ðã mang tiếng khóc bưng đầu mà ra
Khóc vì nỗi thiết tha sự thế
Ai bày trò bãi bể nương dâu
Trắng răng đến thủa bạc đầu ...

Dĩ nhiên, trong suốt 2 tập thơ, Kiệt Tấn trang nghiêm quá, khiến chúng ta hơi bỡ ngỡ, nhất là những ai thích cái kiểu cà giỡn - nhây/Nam kì - (đêm thu sương mù, em ru anh ngủ, anh ủ rủ, anh nhớ hai trái... mù u, đọc ai cũng được, đọc tui tui cám ơn, có xao nói dzậy người ơi, vân vân ) nhưng phải nghiêm như vậy ông mới "làm" một hơi mấy ngàn câu trơn tru trầm bổng nhịp nhàng theo vận nước thê lương và phận người bọt bèo đớn đau thuở ấy. Có lẽ Kiệt Tấn KHÔNG SAO GIỄU ÐƯỢC.
Dĩ nhiên, bây giờ Kiệt Tấn có thể cười được về chiến tranh, vì nó đã qua, nhưng có lẽ ông đã nói xong điều muốn nói. Như Begnini tài ba với La Vie est belle, và phải ở cách xa hơn nửa thế kỉ cuộc chiến tranh diệt chủng Do Thái của bọn Ðức Quốc Xã, mới có thể làm được một phim về thời đau thương ấy mà chọc cười được thiên hạ và nhận được giải thưởng điện ảnh Cannes!
Thì ra, theo thói thường người hay cười hay đùa, thường... thường là những người hay "khóc lẻ loi một mình"! "Khóc cười theo vận nước nổi trôi".
Tập thơ này là món quà vô giá Kiệt Tấn "cống hiến cho bạn đọc" và cũng là món quà dâng lên đất nước. Tổ quốc mà nếu cứ phải nghe lịch sử đời mình lúc nào cũng đi lên độc một điệu trống kèn hùng dũng kinh thiên động địa thì dù không (thể) ăn năn (!) được chắc cũng ngấy đến óc. Có mấy ai tặng được cho quê hương mình một món quà như vậy? Vừa tặng quà cho người, người sống và người chết, người đồng thời, người tương lai, vừa là món thuốc linh nghiệm để giải trừ thương tích ngày xưa.
Ước mong rằng tác giả không còn nghe "vang rền đại pháo", và "xích sắt chiến xa" không bao giờ còn "nghiến nát mộng mị của tôi"...

Cuối tháng 6-2006
Phan Thị Trọng Tuyến
[1] Nguyễn Mộng Giác
[2] Nguyễn Hưng Quốc
[3] Nguyễn Hưng Quốc
[4] Thụy Khuê
[5] Ðoàn Nhã Văn
[6] Ðoàn Nhã Văn trong Ðọc Kiệt Tấn và những đam mê đời thường
[7] Ðoàn Nhã Văn
[8] "Đọc Kiệt Tấn, chúng ta "enjoy" bằng tiếng cười trong văn, và bằng tiếng khóc, trong thơ"
[9] Ðiệp khúc tình yêu và trái phá, Sáng Tạo xuất bản 1966, bìa maquette : Ngọc Dũng, phụ bản Trịnh Cung và Ngọc Dũng, 500 bản, tại nhà in Trần Thanh Hiệp.
[10] "mưa vẫn mưa bay..." "tình yêu như trái phá, con tim mù loà" "Hỡi người yêu da vàng của tôi hãy duỗi tay thật dài về phía hố thẳm vốc lấy những hạt đất mềm mỏng đó mà hôn. Tôi sẽ làm người tiều phu đi nhặt từng cánh tay, bàn chân, từng đốt xương, sọ người vung vãi khắp nơi về làm củi đốt sáng cho đêm tìm lại dấu vết của một hành tinh Việt Nam da vàng bặt tăm..."
[11] Và một thứ
[12] Ấn bản đầu tiên tại Hà Nội do Hồ Dzếnh thực hiện.
[13] Sau này, tôi mới biết chính Ðinh Hùng là tác giả của giọng nói sang sảng, nghiêm trang giới thiệu "đây, Tao Ðàn, tiếng nói của Thi Văn miền Tự Do"! Khi đó còn nhỏ, "bị" nghe nhiều hơn là thích nghe, vì chương trình ngâm thơ này có mặt đến 3 lần trong tuần, thế mà sau đó đi du học được vài tháng, cho đỡ nhớ nhà, tôi muốn gia đình thu thanh và gửi sang cho tôi chương trình này và chương trình đọc truyện của Nguyễn Ðình Toàn!
[14] Nguyễn Bình, theo lời đồn, được anh em văn nghệ sĩ bưng biền thời chống Pháp rất yêu mến. Nhiều nghi vấn đặt ra khi máy bay Pháp bắn chết ông trên đường rút quân. Chỉ vì vào thời kì này, Việt Minh vừa trực tiếp vừa gián tiếp giết hại những người tỏ ý không thần phục đảng Cộng Sản Ðông Dương hoặc thuộc các đảng phái khác. Kiệt Tấn sẽ còn nhắc đến Nguyễn Bình trong tập thơ thứ hai Việt Nam thương khúc.
[15] Năm 1930, Tạ Thu Thâu, thủ lãnh Ðệ Tứ Việt Nam, tổ chức biểu tình trước dinh tổng thống Pháp ở Paris, phản đối việc Pháp xử tử Nguyễn Thái Học và những người anh hùng Quốc Dân Ðảng Việt Nam. Ông và 18 người bạn sinh viên Việt bị Pháp trục xuất về Sài Gòn. Sau này, trên đường công tác từ Bắc về Nam, ông bị Việt Minh bắt và xử tử tại Quảng Ngãi.
[16] ?
[17] Dòng sông và con thuyền hai mươi tuổi
[18] Những người thanh niên này thì hơi khác: thời này họ có khổ cực (vật chất) chứ không có đau khổ ( tinh thần) vì tin tưởng ở chính nghĩa của mình và một ngày mai chiến thắng huy hoàng. Dĩ nhiên, thời bây giờ họ hết khổ cực thì tôi chẳng thể biết họ có được nhàn nhã tinh thần hay không.
[19] Vết sương trên ghế đá hồng
[20] Kẻ sống đã chết
[21] Xin xem bài Phỏng vấn Kiệt Tấn
[22] Những người bạn học chương trình Pháp (Marie Curie, Jean-Jacques Rousseau) sau này cho biết trong phần Việt văn, họ cũng được học một tác phẩm văn chương cổ điển là Kim Vân Kiều
[23] Nhưng cãi ông Ðặng Phong cho vui thôi chứ thật ra những khác biệt đôi bên không nằm trong chương trình giáo dục (Một khác biệt chắc chắn có: ở nội dung và độ dài): Trong tác phẩm viết năm 1993, 1994 Khoa cử & Giáo Dục Việt Nam, nxb TH tp HCM, tái bản lần thứ tư năm 2004, giáo sư Nguyễn Q. Thắng cho biết, rằng con dân cả hai miền Nam Bắc đều học theo chương trình gốc do giáo sư Hoàng Xuân Hãn đặt ra, khi giáo sư làm Bộ Trưởng Giáo Dục – Mĩ Thuật cho chính phủ đầu tiên Trần Trọng Kim do vua Bảo Ðại thành lập. Một chương trình do các học giả có tiếng (và là thầy dạy nhiều thế hệ thanh niên hai miền sau này) soạn ra trong một thời gian ngắn kỉ lục mà giá trị dài lâu. Khác biệt văn hoá là do... tuyên truyền và nhồi sọ. Dạy căm thù bao giờ cũng dễ hơn dạy thương yêu.
[24] Thư ngỏ, VN thương khúc, trang XV-XIX.
[25] Phạm Thiên Thư có lục bát Ðoạn Trường Vô Thanh, Nguyễn Bính có Truyện thơ song thất lục bát, dài trên 2000 câu hoàn tất năm 1957?
[26] Một trong các tướng lãnh chỉ huy các mặt trận tại Huế là Lê Minh có nhắc lại việc chém giết này trong bài viết kỉ niệm Mậu Thân vài mươi năm sau, đại ý cho rằng đa số nạn nhân chết vì "đạn lạc" do máy bay bắn và những vụ trả thù cá nhân!
[27] Xem Viet Nam infos, số 34, 15 tháng 1 2006 www.vninfos.com và tài liệu về tổng công kích Tết Mậu Thân